Ngày 29/6/2018, liên ngành Trung ương ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý (TGPL) trong hoạt động tố tụng theo quy định của Luật TGPL năm 2017, Bộ luật tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam. Thông tư có hiệu lực từ ngày 01/9/2018. Sau đây là một số điểm cần lưu ý khi tiến hành các hoạt động kiểm sát:
1. Về đối tượng áp dụng: Đối tượng chịu sự điều chỉnh của Thông tư và có liên quan đến hoạt động kiểm sát của Viện KSND là các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính; các cơ sở giam giữ, trại giam và những người có thẩm quyền trong việc giam, giữ của các đơn vị này;
2. Trách nhiệm phối hợp của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
– Khi có yêu cầu, Trung tâm TGPL nhà nước hoặc các chi nhánh phải cử, thay thế trợ giúp viên pháp lý, luật sư đã ký hợp đồng với Trung tâm TGPL để bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các đối tượng thuộc diện TGPL;
– Có nghĩa vụ và trách nhiệm cung cho cơ quan có thẩm quyền triển khai tố tụng, cơ sở giam giữ và trại giam 1 số ít văn bản tương quan đến triển khai TGPL như : Bảng thông tin về TGPL, Tờ thông tin về TGPL, Đơn nhu yếu TGPL ; đặc biệt quan trọng là Bản thông tin về người được TGPL, Biên bản lý giải về quyền được TGPL không lấy phí để phân phối cho đương sự, Sổ theo dõi vấn đề TGPL theo mẫu để những cơ quan có thẩm quyền tố tụng, cơ sở gam giữ, trại giam theo dõi việc TGPL ;
– Có nghĩa vụ và trách nhiệm phân phối cho cơ sở giam giữ băng ghi âm, đĩa ghi âm, USB hoặc phương tiện đi lại khác có chứa nộ dung thông tin về TGPL dạng âm thanh ;
– Khi nhận được thông tin, thông tin của cơ quan có thẩm quyền triển khai tố tụng thì Trung tâm có nghĩa vụ và trách nhiệm kiểm tra diện người được TGPL, cử người thực thi TGPL nếu họ là đối tượng người tiêu dùng hoặc thông tin lại cho cơ quan đã thông tin biết nếu họ không thuộc đối tượng người tiêu dùng hoặc không có nhu yếu TGPL .
3. Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng và cơ sở giam giữ, trại giam.
– Về việc lý giải, thông tin, thông tin về TGPL, hoạt động giải trí này có nhiều điểm mới mà Kiểm sát viên phải chú ý quan tâm trong quy trình kiểm sát, theo đó, ngay tại thời bắt, tạm giữ, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai của người bị hại, lấy lời khai đương sự, đương sự nộp đơn trực tiếp tại Tòa án hoặc tại thời gian gửi thông tin thụ lý vụ án, gửi thông tin nhận đơn nhu yếu thì cơ quan, người có thẩm quyền triển khai tố tụng có nghĩa vụ và trách nhiệm chuyển cho họ đọc Bản thông tin về người được TGPL theo mẫu số 01 phát hành kèm theo Thông tư để người được TGPL đọc và ký xác nhận. Trường thợp họ không đọc được thì phải thông tin cho họ biết .
Trường hợp họ tự nhận mình là người được trợ giúp pháp lý thì phải giải thích rõ cho họ về quyền được TGPL miễn phí. Trong tố tụng hình sự, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể nội dung và điền thông tin vào Biên bản giải thích về quyền được TGPL miễn phí theo mẫu 02; trog tố tụng dân sự và tố tụng hành chính thì phải giải thích quyền được TGPL.
Việc thông tin, thông tin về TGPL trong tố tụng hình sự trong trường hợp đương sự tự nhận mình là người được TGPL và có nhu yếu TGPL thì người có thẩm quyền triển khai tố tụng có nghĩa vụ và trách nhiệm thông tin cho Trung tâm. Việc thông tin theo mẫu số 03 và phải ghi vào biên bản tố tụng. Đối với người bị bắt, bị tạm giữ thì ngoài việc thông tin bằng văn bản thì người thực thi tố tụng phải thông tin ngay bằng điện thoại cảm ứng cho Trung tâm .
– Trách của cơ quan, người có thẩm quyền thực thi tố tụng ; của cơ sở giam giữ và người có thẩm quyền của những đơn vị chức năng này có nghĩa vụ và trách nhiệm lý giải, thông tin, thông tin về trợ giúp pháp lý cho đương sự ; thực thi việc ĐK, khước từ, hủy bỏ việc ĐK bào chữa, bảo vệ quyền hạn hợp pháp của đương sự ; niêm yết Bảng thông tin về TGPL ; triển khai việc thống kê vào Sổ theo dõi vấn đề TGPL theo mẫu ; có nghĩa vụ và trách nhiệm phối hợp ngặt nghèo với Trung tâm để bảo vệ vừa đủ quyền lợi và nghĩa vụ cho người được TGPL ;
Người có thẩm quyền thực thi tố tụng phải thông tin trước thời hạn, khu vực hỏi cung, lấy lời khai cho người thực thi TGPL ; thông tin lịch xét xử bằng văn bản trực tiếp hoặc qua dịch vụ bưu chính dưới hình thức bảo vệ cho tổ chức triển khai thực thi TGPL và người thực thi TGPL tối thiểu 10 ngày trước ngày xét xử ( 07 ngày nếu xét xử rút gọn ) ; Bản án phải ghi rõ tên và chức vụ của người thực thi TGPL và quan điểm, quan điểm của họ về việc bào chữa, bảo vệ quyền hạn cho đương sự ;
Cơ sở giam giữ còn phải niêm yết Tờ thông tin về TGPL trong buồng tạm giữ, buồng tạm giam, tại nơi đảm nhiệm người bị tạm giữ, tạm giam, tại phòng thăm gặp, phòng thao tác của người bào chữa và tại nơi hoạt động và sinh hoạt chung của người bị tạm giữ, tạm giam ; có nghĩa vụ và trách nhiệm phát qua những phương tiện đi lại truyền thanh của cơ sở giam giữ băng ghi âm có chứa nội dung thông tin về TGPL dạng âm thanh tại nơi hoạt động và sinh hoạt chung .
4. Đăng ký, hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Trong tố tụng hình sự, việc ĐK bào chữa phải được thực thi trong thời hạn 24 giờ kể từ khi cơ quan tố tụng nhận được khá đầy đủ sách vở và xét thấy không thuộc trường hợp khước từ việc ĐK bào chữa ; trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính thì thời hạn này là 03 ngày .
Trong tố tụng hình sự, người triển khai TGPL tham gia tố tụng từ quy trình tiến độ nào thì ĐK bào chữa ở quá trình đó và văn bản thông tin việc bào chữa có giá trị trong suốt quy trình tham gia tố tụng, trừ những trường hợp pháp luật tại khoản 6 Điều 78 Bộ luật TTHS ; trường hợp vụ án được hồi sinh, tách, nhập, chuyển vụ án trong khoanh vùng phạm vi cấp tỉnh thì người triển khai TGPL vẫn liên tục tham gia tố tụng cho đến khi kết thúc vụ án. / .
Hà Thị Hiên- VKSND huyện Lạng Giang