Để triển khai sản xuất, nhà tư bản phải mua sức lao động và tư liệu sản xuất. Vì tư liệu sản xuất và sức lao động do nhà tư bản mua, nên trong quá trình sản xuất, người công nhân thao tác dưới sự trấn áp của nhà tư bản và mẫu sản phẩm làm ra thuộc chiếm hữu của nhà tư bản .Sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tạo ra giá trị tăng thêm cho nhà tư bản khi hiệu suất lao động đạt tới trình độ nhất định – chỉ cần một phần của ngày lao động người công nhân làm thuê đã tạo ra giá trị bằng giá trị sức lao động của chính mình .
Bằng lao động cụ thể của mình, công nhân sử dụng các tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào sản phẩm; và bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị sản phẩm & hàng hóa ( W ) được sản xuất ra gồm hai phần : giá trị những tư liệu sản xuất đã hao phí được lao động đơn cử bảo tồn và chuyển vào mẫu sản phẩm ( giá trị cũ, ký hiệu c ) và giá trị mới ( v + m ) do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra ( lớn hơn giá trị sản phẩm & hàng hóa sức lao động ). Phần giá trị mới do lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị sản phẩm & hàng hóa sức lao động, được nhà tư bản thu lấy mà không trả cho người lao động, được gọi là giá trị thặng dư ( m ) .Như vậy, lao động sống là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư .
Giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa ( m ) là giá trị mới do lao động sống tạo thêm ra ngoài giá trị sản phẩm & hàng hóa sức lao động, là lao động không được trả công của người lao động làm thuê .Công thức : W = c + v + m .Sản xuất giá trị thặng dư là tiềm năng và động cơ của từng nhà tư bản cũng như hàng loạt nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Bản chất của giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa bộc lộ quan hệ bóc lột giữa người chiếm hữu tư liệu sản xuất và người chiếm hữu sản phẩm & hàng hóa sức lao động, hay nói cách khác giữa nhà tư bản và người làm thuê .
Tư bản không bao giờ thay đổi và Tư bản khả biến[sửa|sửa mã nguồn]
Tư bản không bao giờ thay đổi[sửa|sửa mã nguồn]
Tư bản không bao giờ thay đổi ( c ) là bộ phận tư bản sống sót dưới hình thức tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào mẫu sản phẩm ; tức là giá trị không biến hóa về lượng trong quá trình sản xuất, được gọi là tư bản không bao giờ thay đổi .Tư liệu sản xuất gồm : máy móc, thiết bị, nhà xưởng … chuyển giá trị của nó từng phần vào loại sản phẩm ; nguyên vật liệu, vật tư khi sử dụng được chuyển ngay hàng loạt giá trị của nó vào loại sản phẩm .
Tư bản khả biến[sửa|sửa mã nguồn]
Tư bản khả biển ( v ) là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động. Trong quá trình sản xuất bộ phận tư bản này không tái hiện ra, nhưng trải qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên ; tức là đổi khác về lượng. Một mặt, giá trị của nó chuyển thành tư liệu hoạt động và sinh hoạt của công nhân và mất đi trong tiêu dùng của công nhân. Mặt khác, trong quá trình lao động, nhờ lao động trừu tượng của mình, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị mua sức lao động .
Giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối[sửa|sửa mã nguồn]
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi.
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều kiện ngày lao động, cường độ lao động không đổi.
- Giá trị thăng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư thu được do các xí nghiệp sản xuất có giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, khi bán hàng hoá theo giá trị xã hội, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt trội so với các xí nghiệp khác. Giá trị thặng dư siêu ngạch = Giá trị xã hội của hàng hóa – Giá trị cá biệt của hàng hóa. Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối; là động lực trực tiếp thúc đẩy tăng năng suất lao động.
Sự tăng trưởng của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]
Khi nghiên cứu và điều tra giải pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối, Marx đã trình diễn về 3 quá trình tăng trưởng chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp ; cả 3 tiến trình tăng trưởng này đều làm tăng hiệu suất lao động, tăng giá trị thặng dư tương đối .
Hiệp tác giản đơn[sửa|sửa mã nguồn]
Là hình thức xã hóa lao động, sự hiệp tác của nhiều người lao động cùng làm một việc theo kế hoạch trong cùng một thời gian trên cùng một không gian sản xuất ra cùng một loại hàng hóa; dưới sự điều khiển của cùng một nhà tư bản. Hiệp tác giản đơn vừa tăng sức sản xuất cá nhân, vừa tạo ra sức sản xuất tập thể lớn hơn năng lực cá nhân cộng lại. Đây là cuộc cách mạng về tổ chức lao động.
Phân công công trường thi công thủ công bằng tay[sửa|sửa mã nguồn]
Là triển khai sự hợp tác lao động có phân công dựa trên kỹ thuật thủ công bằng tay. Công trường thủ công bằng tay có nhiều lợi thế hơn hẳn so với hiệp tác giản đơn. Cùng một việc làm được chia thành nhiều thao tác độc lập khác nhau, do đó mỗi người lao động riêng biệt đều trở thành lao động bộ phận trong người lao động toàn diện và tổng thể của cái cơ cấu tổ chức sống là công trường thi công thủ công bằng tay. Đây là cuộc cách mạng bản thân sức lao động, dẫn tới sự đổi khác trong công cụ lao động .
Đại công nghiệp cơ khí
[sửa|sửa mã nguồn]
Cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh diễn ra những năm cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội. Đại công nghiệp có tác dụng đưa máy móc vào sử dụng rộng rãi trong xã hội. Đây là cuộc cách mạng về công cụ lao động.
Phương pháp thống kê giám sát giá trị thặng dư[sửa|sửa mã nguồn]
Công thức để đo lường và thống kê giá trị thặng dư : Căn cứ vào việc xác lập giá tiền của mẫu sản phẩm :
-
- GT= C+ V+ m => m= GT – (C+V)
Trong đó :
- C là phần tư bản bất biến được chuyển vào giá trị hàng hóa. C bao gồm 02 bộ phận là c1 và c2. c1 là phần khấu hao tài sản cố định phân bổ cho mỗi đơn vị hàng hóa, phần này không tăng lên hay giảm đi trong quá trình sản xuất mà nó chỉ chuyển dịch giá trị từ TSCĐ vào giá trị hàng hóa, sau đó nhà tư bản thu hồi lại bằng trích quỹ khấu hao. C2 là giá trị nguyên, nhiên, vật liệu, phụ liệu, phụ gia, phụ phẩm… và giá trị công cụ, dụng cụ rẻ tiền, mau hỏng (thường là có thời gian sử dụng không quá 01 năm) phân bổ cho mỗi đơn vị hàng hóa. Phần này được chuyển hết 01 lần vào giá trị của hàng hóa (nếu là công cụ, dụng cụ rẻ tiền mau hỏng thì phân bổ từng phần nhưng không quá 01 năm). Cả c1 và c2 đều không trực tiếp tạo ra giá trị mới (nên nó mới có tên gọi là tư bản “BẤT BIẾN”), mà nó chỉ là phương tiện để sinh ra giá trị thặng dư mà thôi, chính đặc điểm này đã che đậy GTTD mà lại biểu hiện ra bên ngoài bằng lợi nhuận.
- V là phần tiền công mà nhà tư bản bỏ ra để mua sức lao động của người công nhân, nó còn gọi là lao động sống tạo ra giá trị mới của hàng hóa, nó không những chỉ chuyển toàn bộ giá trị của mình vào giá trị của hàng hóa mà còn tạo thêm phần giá trị tăng thêm (m), (nên mới có tên là tư bản “KHẢ BIẾN”). Phần giá trị tăng thêm này cũng được hình thành do hao phí lao động trừu tượng của người công nhân kết tinh vào hàng hóa, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt, không trả cho người tạo ra nó, tức là nhà tư bản đã mua giá trị lao động thấp hơn giá trị thật của nó, phần chênh lệch gía trị thật của sức lao động này với giá trị mà nhà tư bản bỏ ra để mua sức lao động của công nhân chính là Giá trị thặng dư – vấn đề cốt lõi đang bàn tới.
Hình thái bộc lộ của giá trị thặng dư[sửa|sửa mã nguồn]
Để sản xuất hàng hóa phải có chi phí lao động quá khứ và lao động sống, khi đó giá trị hàng hóa được tạo ra là W = c + v + m.
Nhà tư bản phải mua tư liệu sản xuất (c) và thuê lao động (v), như vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là k = c + v. Khi đó, giá trị hàng hóa sẽ biểu hiện ra dưới hình thái khác là W = k + m.
Sự hình thành phạm trù chi phí sản xuất cùng với việc giá cả sức lao động biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hóa là tiền công, là nguyên nhân làm cho giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hóa là lợi nhuận (p). Khi xuất hiện phạm trù lợi nhuận thì giá trị hàng hóa sẽ biểu hiện thành W = k + p.
Marx nêu ra định nghĩa lợi nhuận: “Giá trị thặng dư, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hóa là lợi nhuận”.
Lợi nhuận của tư bản thương nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]
Sự hình thành doanh thu thương nghiệp do chênh lệch giữa giá cả với giá mua sản phẩm & hàng hóa của tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất do nhà tư bản công nghiệp “ nhường ” cho nhà tư bản thương nghiệp .
Lợi tức của tư bản cho vay và doanh thu ngân hàng nhà nước[sửa|sửa mã nguồn]
Tư bản cho vay (TBCV) là một bộ phận của tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong quá trình tuần hoàn của TBCN được tách ra và vận động độc lập với TBCN. TBCV là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó.
Số lời đó gọi là lợi tức (Z). Hình thức vận động của TBCV T – T’.
Lợi nhuận ngân hàng nhà nước = ( Z cho vay + thu khác ) – ( Z đi vay + ngân sách nhiệm vụ ) .
Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do lao động của công nhân làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp buộc phải nộp cho nhà địa chủ (R).
Địa tô chênh lệch là số dư ngoài lợi nhuận bình quân thu được trên những ruộng đất tốt và trung bình so với ruộng đất kém nhất, là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình. Địa tô chênh lệch I thu được trên cơ sở đất đai có điều kiện tự nhiên thuận lợi (gắn với điều kiện tự nhiên thuận lợi bị độc chiếm. Do vậy, nó thuộc về chủ ruộng đất). Địa tô chênh lệch II do thâm canh mà có.
Địa tô tuyệt đối là địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ dù ruộng đất tốt hay xấu. Đây là loại tô thu trên tất cả mọi thứ ruộng đất. Địa tô tuyệt đối cũng là một loại lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, mà bất cứ nhà tư bản thuê loại ruộng đất nào đều phải nộp cho địa chủ. Tính chất lịch sử của địa tô tuyệt đối gắn liền với quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất, với tính chất lạc hậu tương đối của sản xuất nông nghiệp so với sản xuất công nghiệp.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]