VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ – Luật sư giỏi | Luật sư uy tín | văn phòng luật sư

Vai trò của luật sư, luật sư giỏi trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng tại phiên tòa nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo, giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, tránh làm oan người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được ban hành với nhiều quy định tiến bộ, khẳng định rõ và nâng cao vị thế, vai trò của luật sư luật sư giỏi trong hoạt động tố tụng, nhất là vai trò tranh tụng từ giai đoạn trước khi khởi tố vụ án (thường gọi là giai đoạn tiền tố tụng), khởi tố bị can (giai đoạn một người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố) đến giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can, điều tra, truy tố và xét xử. Bài viết này bàn luận về vai trò của luật sư, luật sư giỏi, luật sư tham gia tố tụng, luật sư bào chữa, đặc biệt là vai trò tranh tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như quyền tham gia tố tụng, quyền bình đẳng với những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa, chức năng bào chữa cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự….

Ở nước ta, trong một thời gian dài vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng chưa được quan tâm chú trọng. Kể từ khi Pháp lệnh về luật sư năm 1987, Luật Luật sư năm 2006 và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị bàn về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” được ban hành, vai trò của luật sư, luật sư giỏi trong vụ án hình sự mới thực sự được ghi nhận. Đây thực sự là những văn bản pháp lý quan trọng ghi nhận vai trò và địa vị pháp lý của luật sư giỏi trong hoạt động xét xử, đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm hoạt động của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ: “Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…”; “việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa… để đề ra những bản án, quyết định đúng pháp luật”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư giỏi tranh luận dân chủ tại phiên tòa”. Bị can, bị cáo hoặc thân nhân của bị can, bị cáo đã chủ động tìm đến luật sư, luật sư giỏi để được tư vấn, nhờ bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình và người thân của họ.
Có thể nói, vai trò của luật sư, luật sư giỏi trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng của luật sư, luật sư giỏi tại phiên tòa nói riêng có vị trí đặc biệt quan trọng, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Luật sư giỏi còn giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật, tránh những vụ án oan, sai, góp phần tích cực vào tiến trình cải cách tư pháp do Bộ Chính trị đề ra.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015, có nhiều quy định tiến bộ nhằm nâng cao vị thế, vai trò và quyền của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng.

1.Luật sư tham gia tố tụng trong giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm.

Đây là một quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chấm dứt việc cơ quan tiến hành tố tụng thường không cho luật sư tham gia trong giai đoạn này như trước đây. Giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm là giai đoạn trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Đây là giai đoạn một người bị tố giác phạm tội, bị kiến nghị khởi tố. Theo quy định tại Điều 83 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tại giai đoạn này luật sư tham gia với tên gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Điều luật này quy định cụ thể như sau:

1. Người bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác, người bị yêu cầu khởi tố là người được người bị tố giác, người bị yêu cầu khởi tố nhờ bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp .
2. Người bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác, người bị yêu cầu khởi tố hoàn toàn có thể là :
a ) Luật sư ;
b ) Bào chữa viên nhân dân ;
c ) Người đại diện thay mặt ;
d ) Trợ giúp viên pháp lý .
3. Người bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác, người bị yêu cầu khởi tố có quyền :
a ) Đưa ra chứng cứ, tài liệu, vật phẩm, nhu yếu ;
b ) Kiểm tra, nhìn nhận và trình diễn quan điểm về chứng cứ, tài liệu, vật phẩm tương quan và nhu yếu người có thẩm quyền triển khai tố tụng kiểm tra, nhìn nhận ;
c ) Có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị đề xuất kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên chấp thuận đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị yêu cầu khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác, người bị đề xuất kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị yêu cầu khởi tố ;
d ) Có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận ra giọng nói người bị tố giác, người bị yêu cầu khởi tố ;
đ ) Khiếu nại quyết định hành động, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền thực thi tố tụng .
4. Người bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của người bị tố giác, người bị đề xuất kiến nghị khởi tố có nghĩa vụ và trách nhiệm :
a ) Sử dụng những giải pháp do pháp lý lao lý để góp thêm phần làm rõ thực sự khách quan của vụ án ;
b ) Giúp người bị tố giác, người bị đề xuất kiến nghị khởi tố về pháp lý nhằm mục đích bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của họ .

2. Luật sư tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.

Trong những quy trình tiến độ này, luật sư luật sư giỏi tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa. Theo pháp luật tại Điều 73 Bộ luật tố tụng hình sự năm năm ngoái, Luật sư có quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm như sau :
Điều 73. Quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của người bào chữa
1. Người bào chữa có quyền :

a) Gặp, hỏi người bị buộc tội;

b ) Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền triển khai lấy lời khai, hỏi cung đồng ý chấp thuận thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa hoàn toàn có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can ;
c ) Có mặt trong hoạt động giải trí đối chất, nhận dạng, nhận ra giọng nói và hoạt động giải trí tìm hiểu khác theo pháp luật của Bộ luật này ;
d ) Được cơ quan có thẩm quyền thực thi tố tụng báo trước về thời hạn, khu vực lấy lời khai, hỏi cung và thời hạn, khu vực thực thi hoạt động giải trí tìm hiểu khác theo lao lý của Bộ luật này ;
đ ) Xem biên bản về hoạt động giải trí tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định hành động tố tụng tương quan đến người mà mình bào chữa ;
e ) Đề nghị đổi khác người có thẩm quyền triển khai tố tụng, người giám định, người định giá gia tài, người phiên dịch, người dịch thuật ; ý kiến đề nghị đổi khác, hủy bỏ giải pháp ngăn ngừa, giải pháp cưỡng chế ;
g ) Đề nghị triển khai hoạt động giải trí tố tụng theo lao lý của Bộ luật này ; ý kiến đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền thực thi tố tụng ;
h ) Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, vật phẩm, nhu yếu ;
i ) Kiểm tra, nhìn nhận và trình diễn quan điểm về chứng cứ, tài liệu, vật phẩm tương quan và nhu yếu người có thẩm quyền thực thi tố tụng kiểm tra, nhìn nhận ;
k ) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền triển khai tố tụng tích lũy chứng cứ, giám định bổ trợ, giám định lại, định giá lại gia tài ;
l ) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án tương quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc tìm hiểu ;
m ) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa xét xử ;
n ) Khiếu nại quyết định hành động, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền triển khai tố tụng ;
o ) Kháng cáo bản án, quyết định hành động của Tòa án nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có điểm yếu kém về tinh thần hoặc sức khỏe thể chất theo pháp luật của Bộ luật này .
2. Người bào chữa có nghĩa vụ và trách nhiệm :
a ) Sử dụng mọi giải pháp do pháp lý pháp luật để làm sáng tỏ những diễn biến xác lập người bị buộc tội vô tội, những diễn biến giảm nhẹ nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo ;
b ) Giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm mục đích bảo vệ quyền và quyền lợi hợp pháp của họ ;
c ) Không được phủ nhận bào chữa cho người bị buộc tội mà mình đã đảm nhiệm bào chữa nếu không vì nguyên do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan ;
d ) Tôn trọng thực sự ; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, phân phối tài liệu sai thực sự ;
đ ) Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án ; trường hợp chỉ định người bào chữa theo pháp luật tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải xuất hiện theo nhu yếu của Cơ quan tìm hiểu, Viện kiểm sát ;

e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;

g ) Không được bật mý thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý chấp thuận bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục tiêu xâm phạm quyền lợi của Nhà nước, quyền lợi công cộng, quyền và quyền lợi hợp pháp của cơ quan, tổ chức triển khai, cá thể .

3. Người bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của luật.
Với các quy định trên, chúng ta thấy Luật sư với vai trò đại diện cho bị can, bị cáo có quyền bào chữa, quyền gỡ tội, thay mặt cho bị can, bị báo đưa ra những lý lẽ chứng minh những yếu tố làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đồng thời, khi tham gia tố tụng luật sư còn cung cấp bổ sung chứng cứ (gỡ tội) cho cơ quan tiến hành tố tụng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều điểm tiến bộ, khẳng định rõ vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động tranh tụng nói riêng. Điển hình là quy định luật sư có quyền trong việc tham gia tố tụng như: Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, được gặp bị can, bị cáo, thu thập và xuất trình tài liệu, đồ vật, nghiên cứu hồ sơ vụ án…Tuy nhiên, không phải lúc nào, nơi nào, luật sư cũng được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các quyền của mình đã được pháp luật quy định.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng ghi nhận quyền bình đẳng của luật sư với những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa một cách cụ thể hơn so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì thẩm quyền và vị thế của luật sư tranh tụng tại phiên tòa được nâng cao, luật sư có quyền bình đẳng với cơ quan tiến hành tố tụng khác: “Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”, đây là điểm mới so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cũng quy định cho luật sư một trong những quyền là được nghiên cứu hồ sơ vụ án, được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu có liên quan đến bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình.

Trong hoạt động tố tụng, luật sư có chức năng gỡ tội cho bị can, bị cáo luôn đối lập với chức năng buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng, nhưng về mặt ý nghĩa pháp lý lại đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan công bằng, đúng pháp luật, tránh cách nhìn phiến diện một chiều luôn buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng. Việc quy định bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết qủa kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết qủa tranh tụng tại phiên tòa”. Luật sư khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa có quyền bình đẳng với cơ quan tiến hành tố tụng khác, đưa ra chứng cứ, lý lẽ, suy đoán có cơ sở pháp lý, đúng pháp luật làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án hình sự, nhằm giảm nhẹ hình phạt hoặc gỡ tội cho bị can, bị cáo. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là trung tâm đánh giá chứng cứ, đối chất giữa những người tham gia tố tụng một cách công bằng, dân chủ, đó cũng là nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về ghi nhận và “bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”. Vai trò của luật sư dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, luật sư là người tham gia tố tụng, có vai trò thực hiện chức năng bào chữa cho bị can, bị cáo góp phần giúp cho vụ án được giải quyết một cách khách quan, toàn diện, không làm oan, sai cho người vô tội.
Có thể khẳng định rằng, vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét nhất thông qua việc tranh tụng tại phiên tòa. Điều này đảm bảo tính công khai, dân chủ, công bằng, không lệ thuộc vào ý chí chủ quan của người tiến hành tố tụng, không còn định kiến như quan niệm trước đây là “án tại hồ sơ”, mọi kết luận đều dựa trên hồ sơ của cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xác định sự thật của vụ án được quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.
3. Nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa 
Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục ghi nhận, nâng cao vai trò tranh tụng của luật sư tại phiên tòa. Để đảm bảo việc tranh tụng hiệu quả, thuyết phục được những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa, bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho thân chủ, chúng tôi cho rằng luật sư cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án; nghiên cứu bản cáo trạng; nghiên cứu kết luận điều tra của cơ quan điều tra; nghiên cứu văn bản pháp luật liên quan tới vụ án; nghiên cứu văn bản tố tụng; nghiên cứu về tài liệu liên quan tới vụ án; nghiên cứu vấn đề giám định; các loại văn bản giấy tờ chứng cứ của bị can, bị cáo; nghiên cứu các tài liệu; nghiên cứu các lĩnh vực khoa học có tính chất gần, liên quan. Luật sư là người nắm rõ và tổng hợp được tất cả những vấn đề của vụ án, có sự đánh giá, phân tích khách quan đến từng chi tiết chứng cứ, tìm ra những mâu thuẫn trong lời khai, minh chứng là cơ sở để lập luận bảo vệ cho thân chủ của mình tại phiên tòa.
Thứ hai, cần gặp gỡ trao đổi với bị can, bị cáo, đặt ra các câu hỏi để hướng bị can, bị cáo nhớ, tường thuật lại tình tiết xảy ra trong vụ án, trả lời một cách trung thực, khách quan; bên cạnh đó cũng cần phải có kiến thức, kinh nghiệm trong việc hỏi, lấy lời khai khi tham gia tiếp xúc gặp gỡ bị can, bị cáo; có kinh nghiệm sử dụng các thiết bị để lưu trữ các thông tin do bị can, bị cáo cung cấp.
Thứ ba, cần thu thập được các tài liệu chứng cứ liên quan tới vụ án, đặc biệt cần nắm bắt được những chứng cứ quan trọng nhằm gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội cho thân chủ trên tinh thần tuân thủ pháp luật, không đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp của luật sư; có kinh nghiệm tổng hợp và chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa kỹ lưỡng như: Chuẩn bị những luận cứ quan trọng để bảo vệ cho thân chủ; chuẩn bị được câu hỏi, chiến thuật hỏi để tham gia quá trình tranh tụng; chuẩn bị các tài liệu liên quan tới vụ án; luật sư cũng cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt và kỹ năng hùng biện tranh tụng lôi cuốn, thuyết phục sự chú ý của người tiến hành tố tụng bằng các lập luật vững chắc, chứng cứ xác đáng nhằm làm có lợi cho thân chủ mà luật sư tham gia bảo vệ.
Thứ tư, trong quá trình tham dự phiên tòa luật sư phải có chiến thuật trong việc nêu câu hỏi và đặt câu hỏi hướng vào các tình tiết khách quan, chứng cứ có lợi cho thân chủ được bảo vệ. Luật sư phải thực sự linh hoạt, ứng biến trong các tình huống diễn biến tại phiên tòa; luật sư có chiến thuật vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức pháp lý vận dụng theo hướng có lợi nhất để bảo vệ cho thân chủ; có chiến thuật trong việc đưa ra các câu hỏi cho người làm chứng để họ cung cấp các thông tin một cách chính xác, khách quan, chất vấn những tình tiết trong vụ án có tính chất mâu thuẫn bất hợp lý vận dụng để bảo vệ cho thân chủ.
Thứ năm, luật sư cần phải được đào tạo kỹ càng chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng tranh tụng. Nhà nước có chính sách hợp lý, đãi ngộ chú trọng công tác đào tạo luật sư giỏi, để làm thay đổi nhận thức hiện nay đối với giới luật sư. Kiến tạo được cán cân công bằng giữa luật sư phải thực sự bình đẳng với cơ quan tiến hành tố tụng khác, có như vậy mới khách quan, công bằng, tránh được những vụ án oan sai như báo chí đưa ra trong thời gian gần đây.

 Trong hoạt động giải trí tố tụng, luật sư có công dụng gỡ tội cho bị can, bị cáo luôn trái chiều với tính năng buộc tội của cơ quan thực thi tố tụng, nhưng về mặt ý nghĩa pháp lý lại bảo vệ cho việc xử lý vụ án được khách quan công minh, đúng pháp lý, tránh cách nhìn phiến diện một chiều luôn buộc tội của cơ quan triển khai tố tụng. Việc pháp luật bản án, quyết định hành động của Tòa án phải địa thế căn cứ vào hiệu quả nhìn nhận chứng cứ và hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa xét xử. Mọi chứng cứ xác lập có tội, chứng cứ xác lập vô tội, diễn biến tăng nặng, diễn biến giảm nhẹ nghĩa vụ và trách nhiệm hình sự, vận dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác lập tội danh, quyết định hành động hình phạt, mức bồi thường thiệt hại so với bị cáo, giải quyết và xử lý vật chứng và những diễn biến khác có ý nghĩa xử lý vụ án đều phải được trình diễn, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa xét xử. Bản án, quyết định hành động của Tòa án phải địa thế căn cứ vào hiệu quả kiểm tra, nhìn nhận chứng cứ và tác dụng tranh tụng tại phiên tòa xét xử ”. Luật sư khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa xét xử có quyền bình đẳng với cơ quan thực thi tố tụng khác, đưa ra chứng cứ, lý lẽ, suy đoán có cơ sở pháp lý, đúng pháp lý làm sáng tỏ thực sự khách quan của vụ án hình sự, nhằm mục đích giảm nhẹ hình phạt hoặc gỡ tội cho bị can, bị cáo. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét xử là TT nhìn nhận chứng cứ, đối chất giữa những người tham gia tố tụng một cách công minh, dân chủ, đó cũng là nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm năm ngoái về ghi nhận và “ bảo vệ quyền bào chữa của bị can, bị cáo ”. Vai trò của luật sư dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, luật sư là người tham gia tố tụng, có vai trò thực thi tính năng bào chữa cho bị can, bị cáo góp thêm phần giúp cho vụ án được xử lý một cách khách quan, tổng lực, không làm oan, sai cho người vô tội. Có thể chứng minh và khẳng định rằng, vai trò của luật sư được bộc lộ rõ nét nhất trải qua việc tranh tụng tại phiên tòa xét xử. Điều này bảo vệ tính công khai minh bạch, dân chủ, công minh, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người triển khai tố tụng, không còn định kiến như ý niệm trước kia là “ án tại hồ sơ ”, mọi Kết luận đều dựa trên hồ sơ của cơ quan thực thi tố tụng. Việc xác lập thực sự của vụ án được pháp luật : “ Trách nhiệm chứng tỏ tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền triển khai tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng tỏ là mình vô tội ”. Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa xét xử là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm năm ngoái liên tục ghi nhận, nâng cao vai trò tranh tụng của luật sư tại phiên tòa xét xử. Để bảo vệ việc tranh tụng hiệu suất cao, thuyết phục được những người thực thi tố tụng tại phiên tòa xét xử, bảo vệ quyền và quyền lợi tốt nhất cho thân chủ, chúng tôi cho rằng luật sư cần bảo vệ một số ít nhu yếu sau : Thứ nhất, cần nghiên cứu và điều tra kỹ lưỡng hồ sơ vụ án ; điều tra và nghiên cứu bản cáo trạng ; nghiên cứu và điều tra Kết luận tìm hiểu của cơ quan tìm hiểu ; điều tra và nghiên cứu văn bản pháp lý tương quan tới vụ án ; điều tra và nghiên cứu văn bản tố tụng ; nghiên cứu và điều tra về tài liệu tương quan tới vụ án ; điều tra và nghiên cứu yếu tố giám định ; những loại văn bản sách vở chứng cứ của bị can, bị cáo ; điều tra và nghiên cứu những tài liệu ; điều tra và nghiên cứu những nghành khoa học có đặc thù gần, tương quan. Luật sư là người nắm rõ và tổng hợp được toàn bộ những yếu tố của vụ án, có sự nhìn nhận, nghiên cứu và phân tích khách quan đến từng chi tiết cụ thể chứng cứ, tìm ra những xích míc trong lời khai, vật chứng là cơ sở để lập luận bảo vệ cho thân chủ của mình tại phiên tòa xét xử. Thứ hai, cần gặp gỡ trao đổi với bị can, bị cáo, đặt ra những câu hỏi để hướng bị can, bị cáo nhớ, tường thuật lại diễn biến xảy ra trong vụ án, vấn đáp một cách trung thực, khách quan ; cạnh bên đó cũng cần phải có kỹ năng và kiến thức, kinh nghiệm tay nghề trong việc hỏi, lấy lời khai khi tham gia tiếp xúc gặp gỡ bị can, bị cáo ; có kinh nghiệm tay nghề sử dụng những thiết bị để tàng trữ những thông tin do bị can, bị cáo cung ứng. Thứ ba, cần tích lũy được những tài liệu chứng cứ tương quan tới vụ án, đặc biệt quan trọng cần chớp lấy được những chứng cứ quan trọng nhằm mục đích gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội cho thân chủ trên niềm tin tuân thủ pháp lý, không đi ngược lại với đạo đức nghề nghiệp của luật sư ; có kinh nghiệm tay nghề tổng hợp và sẵn sàng chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa xét xử kỹ lưỡng như : Chuẩn bị những luận cứ quan trọng để bảo vệ cho thân chủ ; sẵn sàng chuẩn bị được câu hỏi, giải pháp hỏi để tham gia quy trình tranh tụng ; chuẩn bị sẵn sàng những tài liệu tương quan tới vụ án ; luật sư cũng cần phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt và kiến thức và kỹ năng hùng biện tranh tụng hấp dẫn, thuyết phục sự chú ý quan tâm của người triển khai tố tụng bằng những lập luật vững chãi, chứng cứ xác đáng nhằm mục đích làm có lợi cho thân chủ mà luật sư tham gia bảo vệ. Thứ tư, trong quy trình tham gia phiên tòa xét xử luật sư phải có giải pháp trong việc nêu câu hỏi và đặt câu hỏi hướng vào những diễn biến khách quan, chứng cứ có lợi cho thân chủ được bảo vệ. Luật sư phải thực sự linh động, ứng biến trong những trường hợp diễn biến tại phiên tòa xét xử ; luật sư có giải pháp vận dụng thuần thục kỹ năng và kiến thức pháp lý vận dụng theo hướng có lợi nhất để bảo vệ cho thân chủ ; có giải pháp trong việc đưa ra những câu hỏi cho người làm chứng để họ cung ứng những thông tin một cách đúng chuẩn, khách quan, phỏng vấn những diễn biến trong vụ án có đặc thù xích míc bất hài hòa và hợp lý vận dụng để bảo vệ cho thân chủ. Thứ năm, luật sư cần phải được huấn luyện và đào tạo kỹ càng sâu xa về trình độ, nhiệm vụ, kỹ năng và kiến thức tranh tụng. Nhà nước có chủ trương hài hòa và hợp lý, đãi ngộ chú trọng công tác làm việc giảng dạy luật sư giỏi, để làm đổi khác nhận thức lúc bấy giờ so với giới luật sư. Kiến tạo được cán cân công minh giữa luật sư phải thực sự bình đẳng với cơ quan thực thi tố tụng khác, có như vậy mới khách quan, công minh, tránh được những vụ án oan sai như báo chí truyền thông đưa ra trong thời hạn gần đây .

Source: https://vvc.vn
Category : Pháp luật

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay