Tại sao nói, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất của nhà nước để quản lý xã hội

Tại sao nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật

  • doc
  • 9 trang

Tại sao Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật?
BÀI LÀM
Trong quá trình phát triển lịch sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra
đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, pháp luật là phương tiện, công cụ
quan trọng để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự
phát triển xã hội. Bên cạnh tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo, các quy định của
tổ chức xã hội, dư luận xã hội, các quy ước của cộng đồng dân cư…thì pháp luật là
công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước, giữa Nhà nước và pháp luật luôn có
mối quan hệ qua lại, tác động tương hỗ lẫn nhau. Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn
gắn với giai cấp cầm quyền. Đối với xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp,
mọi hoạt động của đời sống xã hội được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật nhằm
mang lại lợi ích cho giai cấp thống trị. Trên thực tế, pháp luật của những Nhà nước
gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp với xu hướng phát triển
tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định nhằm bảo vệ lợi ích
chân chính và phẩm giá con người. Ngược lại, nếu pháp luật của Nhà nước gắn với
giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường chứa đựng yếu tố trì trệ,
bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính. Trong trường hợp như vậy, pháp luật sẽ
không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát
triển khách quan của thời đại.
Trước đây, trong lịch sử, Nho giáo đã lấy đạo đức để răn dạy con người. Với
chủ trương “đức trị”, Nho giáo đã “đạo đức hoá chính trị và đề cao, thậm chí đến mức
tuyệt đối hoá việc quản lý xã hội bằng cách nêu gương, cảm hoá, làm cho dân chúng
an tâm và từ đó, hy vọng tạo nên sự ổn đình xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh
hưởng to lớn, tích cực đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế,
tiêu cực và bảo thủ. Đối lập với chủ trương “đức trị” là tư tưởng “pháp trị”. Thực tế

cho thấy, đã từng có những vị vua dùng pháp luật để cai trị đất nước. Với chủ trương
“pháp trị”, họ đã có những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh, đưa xã hội
đi vào cuộc sống có quy tắc, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Tuy nhiên, cả
tư tưởng “đức trị” và “pháp trị” thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tính
chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau mà các
thế lực thống trị sử dụng để củng cố địa vị và quyền lực của mình.
Do đó, xã hội phải được quản lý bằng pháp luật, trên phương diện lý luận
cũng như thực tiễn, pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ
các quyền lợi chính đáng của con người, đồng thời, tạo điều kiện cho con người
phát huy những năng lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng
nghĩa với việc đảm bảo trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn
trọng các giá trị xã hội. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí
và nguyện vọng của số đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần
thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội. Sở dĩ Nhà nước phải thực hiện quản lý xã
hội bằng pháp luật, bởi lẽ, trong cuộc sống vai trò của pháp luật được thể hiện ở
trên mọi phương diện và các khía cạnh của cuộc sống, cụ thể:
Thứ nhất, pháp luật có vai trò quan trọng đối với các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Pháp luật là phương tiện ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Trong các văn bản pháp luật của nhà nước đều có những
điều khoản quy định quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, để đảm bảo được các
quyền và lợi ích của công dân pháp luật còn có những điều khoản quy định mọi
hành vi xâm phạm đến các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân đều bị xử lý
nghiêm minh. Pháp luật không chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
công dân mà còn quy định cả cơ chế pháp lý, các quy định pháp luật thủ tục để
thực hiện các quyền và lợi ích, hợp pháp của công dân, các quyền và lợi ích đó

được pháp luật quy định, bảo vệ trong tất cả các lĩnh vực quan hệ xã hội. Các cuộc
cải cách, điều chỉnh pháp luật và cải cách bộ máy nhà nước đều hướng tới mục tiêu
là bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
Thứ hai, pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước
Là một cơ chế phức tạp, để thực hiện quyền lực nhà nước, bộ máy Nhà
nước luôn phải được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật. Bên cạnh những
quy định của hiến pháp mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước đều được tổ chức và
hoạt động theo những văn bản pháp luật nhất định. Việc tổ chức bộ máy nhà nước
theo pháp luật sẽ đảm bảo được tínhchính xác, chặt chẽ, tính thống nhất cao trong
tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, đồng thời cũng thể hiện tầm quan trọng
của hoạt động quản lý nhà nước tạo ra sức mạnh tổng hợp, có tổ chức của bộ máy
nhà nước. Bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật cũng tránh
được hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn hoặc tuỳ tiện, lạm quyền, tạo ra một cơ
chế đồng bộ thực hiện có hiệu quả quyền lực nhân dân.
Pháp luật là một công cụ cực kỳ quan trọng trong tay nhà nước để điều
chỉnh các quan hệ xã hội: tác động tới kinh tế và các yếu tố của các kiến trúc
thượng tầng xã hội. Nhà nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật. Pháp luật là
công cụ quản lý xã hội của nhà nước, do nhà nước đặt ra nhưng trong xã hội văn
minh,nhà nước cũng phải tự hạn chế bởi pháp luật, chịu phục tùng, phải thi hành
pháp luật do chính mình đặt ra. Có như vậy mới bảo vệ được quyền của công
dân,tránh sự lạm quyền,bảo đảm sự công bằng và sự phát triển bình thường của
nhà nước.Pháp luật chỉ có thể hiện được trong đời sống khi có sự đảm bảo của nhà
nước ở đây một lần lữa ta càng thấy rõ nhà nước và pháp luật có quan hệ qua lại
hữu cơ với nhau, cùng phát sinh tồn và phát triển.
Thứ ba, pháp luật là vũ khí chính trị để nhân dân lao động chống lại các
giai cấp áp bức bóc lột.

Thể hiện ý trí nhà nước của nhân dân lao động, pháp luật là vũ khí chính
trị mà nhân dân dùng để chống lại các giai cấp áp bức bóc lột. Dựa vào pháp luật
nhân dân tiến hành trấn áp các lực lượng phản cách mạng, giữ vững an ninh chính
trị trật tự an toàn xã hội ,ghi nhận và củng cố chính quyền nhân dân. Pháp luật là
phương tiện thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng ,nhà nước ,pháp luật cũng
là công cụ để cải tạo xã hội cũ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá-xã
hội…đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân lao động .
Tóm lại, Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng đều thuộc thượng tầng
kiến trúc xã hội luôn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật là
phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội, tạo ra một trật tự xã hội phù hợp với ý chí
nhà nước, mang lại đời sống hạnh phúc cho nhân dân 1. Nhà nước ra đời có nhiệm
vụ quản lý xã hội, việc quản lý xã hội của nhà nước phải bằng pháp luật, chỉ có
việc quản lý xã hội bằng pháp luật thì mục đích việc quản lý mới đạt được và có
hiệu quả cao. Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt, có
một bộ máy quản lý, duy trì trật tự xã hội, vì sự tồn tại và phát triển của xã hội
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích, địa vị của giai cấp thống trị và của toàn xã hội. Nhà
nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi tổ chức và
cá nhân trên lãnh thổ của mình. Với tư cách là tổ chức đại diện chính thức của toàn
xã hội, nhà nước ban hành pháp luật – một công cụ quản lý xã hội sắc bén, hiệu quả
và đòi hỏi sự tôn trọng, thực hiện nghiêm minh của mọi tổ chức và cá nhân trong
xã hội.
Dựa vào những thuộc tính của mình, pháp luật trở thành công cụ quản lý có
hiệu quả nhất trong các công cụ quản lý xã hội của nhà nước và là công cụ không
thể thay thế trong giai đoạn hiện nay. Pháp luật còn là công cụ bảo vệ lợi ích của
nhà nước, lợi ích xã hội và mỗi người dân. Muốn bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội,
1

TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008

nhân dân, Nhà nước phải dựa trên căn cứ pháp lý và theo những trình tự thủ tục
luật định.
Trong xã hội hiện nay, Nhà nước phải thực hiện quản lý xã hội bằng pháp
luật bởi vì pháp luật là phương tiện, công cụ quan trọng để duy trì, bảo vệ trật
tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Sở dĩ cho rằng
pháp luật là công cụ quản lý xã hội quan trọng của Nhà nước bởi vì:
– Pháp luật là vũ khí chính trị để nhân dân chống lại các lực lượng thù địch,
phản cách mạng, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng là công cụ để cải tạo xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội…định hướng cho xã hội phát triển, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
– Pháp luật là phương tiện mà thông qua đó Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Dưới hình thức pháp luật, đường lối chính sách của Đảng sẽ được
triển khai thực hiện nhanh, chính xác và có hiệu quả cao trên quy mô toàn xã hội
– Pháp luật là cơ sở pháp lý để bộ máy nhà nước tổ chức và hoạt động. Nhà
nước không thể tồn tại nếu thiếu pháp luật, nó cần tới pháp luật để quy định thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước, xác định mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước
với nhau, giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và nhân dân bảo đảm tính
chặt chẽ, thống nhất, chính xác và tạo sức mạnh tổng hợp của bộ máy nhà nước.
– Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý hiệu quả các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Pháp luật được sử dụng để phối hợp, quy tụ những hoạt động
cá nhân riêng rẽ trong xã hội nhằm đạt được những mục đích mong muốn, duy trì
đời sống cộng đồng xã hội. Có thể nói hầu hết các lĩnh vực quan trọng của đời
sống cộng đồng xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội…đều được nhà nước
quản lý bằng pháp luật. Và chỉ quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực quan trọng

đó của đời sống xã hội thì mục đích của việc quản lý mới đạt được và có hiệu quả
cao.
Thông qua pháp luật, Nhà nước đề ra các kế hoạch và chính sách phát triển
các lĩnh vực đời sống xã hội, xác định cơ cấu, tổ chức và hoạt động, các biện pháp
kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với lĩnh vực xã hội đó, đưa ra các biện pháp
hữu hiệu để xử lý các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. Pháp luật có thể
thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự pháp triển và cũng có thể kìm hãm sự phát
triển của lĩnh vực hoạt động xã hội nào đó vì sự tiến bộ xã hội và hạnh phúc của
nhân dân.
– Pháp luật thiết lập và bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện dân chủ xã hội.
Bằng pháp luật, Nhà nước quy định các quyền, tự do dân chủ của nhân dân. Thông
qua pháp luật Nhà nước xác định địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội, xác định
mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội khác, giữa Nhà nước với nhân
dân. Pháp luật còn góp phần giải quyết những tranh chấp, điều hòa lợi ích giữa
Trung ương và địa phương, giữa các vùng, miền, giữa các lực lượng, các nhóm xã
hội khác nhau. Dựa vào pháp luật, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
– Pháp luật là phương tiện giáo dục con người mới. Trong xã hội, pháp luật
là một trong những phương tiện để giáo dục con người mới năng động, sáng tạo,
có niềm tự hào dân tộc, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ văn minh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xâu dựng và
bảo vệ tổ quốc. Bằng những quy định của mình, pháp luật giáo dục cán bộ, nhân
dân trách nhiệm của người dân, ý thức sống, làm việc theo Hiếp pháp, pháp luật,
giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, tôn
trọng các quy tắc của đời sống cộng đồng. Pháp luật còn giáo dục công dân yêu lao
động, yêu Tổ quốc, có tình thần quốc tế chân chính, đoàn kết, hữu nghị vì hòa bình

và tiến bộ xã hội… Ý nghĩa giáo dục to lớn của pháp luật còn thể hiện ở việc pháp
luật quy định những biện pháp khen thưởng và trừng phạt phù hợp với các hành vi
pháp luật của tổ chức và cá nhân trong xã hội.
– Pháp luật tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành những
quan hệ mới trong xã hội. Pháp luật luôn hướng tới việc thúc đẩy hình thành những
quan hệ xã hội mới thể hiện sự bình đẳng, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa những
người lao động trong xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn là cơ sở pháp lý để đấu
tranh với những hiện tượng tiêu cực trong quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của
đất nước mình.
– Pháp luật là công cụ bảo vệ hữu hiệu quyền công dân, quyền con người,
bảo vệ trật tự xã hội, bảo vệ công lý. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo
pháp luật. Pháp luật còn có tác dụng ngăn ngừa, xử lý các hiện tượng tiêu cực
trong đời sống xã hội vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
– Pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện cho những công cụ quản lý xã hội khác phát
triển vì xã hội công bằng, hạnh phúc, văn minh, tốt đẹp hơn. Đồng thời, hạn chế và
loại trừ những quy định không tiến bộ, bất cập của những công cụ đó với xã hội.
Như vậy, có thể nói, pháp luật là công cụ quan trọng để quản lý, giữ gìn trật
tự xã hội, để giải quyết các xung đột trong xã hội, là phương tiện để cải biến xã
hội.
Bên cạnh đó, trong những công cụ quản lý xã hội thì pháp luật được xem là
một trong những công cụ quản lý xã hội hiệu quả nhất hiện nay, bởi vì so với
những công cụ xã hội khác, pháp luật có những ưu thế cơ bản sau đây [2]:

2

TS. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, NXB Chính trị quốc gia năm 2008

– Thứ nhất, pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Việc ban
hành pháp luật của Nhà nước được tiến hành thông qua nhữn trình tự thủ tục chặt
chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, các tổ chức và các cá nhân nên pháp luật luôn có tính khoa học, chặt chẽ,
chính xác trong điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Thứ hai, pháp luật do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của Nhà nước và
nhân dân, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Nhân dân thông qua nhà nước để nâng ý chí
của mình lên thành ý chí của nhà nước dưới dạng quy tắc xử sự chung do chính
quyền nên được Nhà nước và nhân dân tự giác thực hiện. Ngoài ra, pháp luật có
những chế tài nghiêm khắc để đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh như phạt
tiền, phạt tù, tù chung thân, tử hình…với sự đảm bảo của Nhà nước pháp luật được
tôn trọng và thực hiện nghiêm minh.
– Thứ ba, pháp luật chủ yếu bao gồm các quy tắc xử sự chung, được thể hiện
trong những hình thức xác định, có kết cấu logic rất chặt chẽ và được đặt ra không
phải xuất phát từ một trường hợp cụ thể mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những
trường hợp có tính phổ biến trong xã hội. Do đó, pháp luật có tính khái quát cao, là
khuôn mẫu để các tổ chức, cá nhân thực hiện.
– Thứ tư, pháp luật mang tính bắt buộc chung, không phải chỉ áp dụng cho
một tổ chức hay cá nhân cụ thể mà cho toàn xã hội, tất cả các tổ chức và cá nhân
liên quan.
– Thứ năm, pháp luật có phạm vi rộng lớn, hầu hết các quan hệ xã hội đều
được pháp luật điều chỉnh.
– Thứ sáu, pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức, tạo sự thống
nhất, chặt chẽ, rõ ràng, chính xác về nội dung của pháp luật.

Mặc dù, pháp luật có vai trò quan trọng trong quản lý xã hội của Nhà nước.
Song, pháp luật không phải là công cụ quản lý xã hội vạn năng mà pháp luật cũng
có những hạn chế của mình. Chẳng hạn, ngoài tính khách quan thì pháp luật còn
mang tính chủ quan, nghĩa là nó phụ thuộc vào ý chí của những người có thẩm
quyền trong quy trình ban hành pháp luật. Tính khái quát cao của pháp luật đôi khi
không sát với trường hợp cụ thể. Pháp luật còn bị ràng buộc bởi cơ chế điều chỉnh
pháp luật phức tạp, đôi khi phiền hà, cứng nhắc.
Tóm lại, trong đời sống pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, pháp luật là
phương tiện không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành của xã hội, pháp luật
không chỉ là một công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý xã hội hữu hiệu, mà
còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển lành mạnh hoá đời sống xã hội và
góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện
nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan
nhằm mục đích xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, văn minh.

Tải về bản full

Đặc điểm của pháp luật

Pháp luật có 03 đặc thù ( tín hiệu ) cơ bản sau đây :Nội dung chính

  • Tại sao nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật
  • Đặc điểm của pháp luật
  • Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện
  • Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung
  • Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức:
  • 1. Điều chỉnh quan hệ xã hội là gì?
  • Pháp luật là gì?
  • Xã hội học xây dựng pháp luật
  • Video liên quan

Pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện

Pháp luật do Nhà nước phát hành trải qua rất nhiều những trình tựthủ tụcchặt chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cáctổ chứcvà cáccá nhânnên pháp luật luôn có tính khoa học, chặt ché, đúng mực trong kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội .Pháp luật được nhà nước bảo vệ thực thi bằng nhiềubiện pháp, trong đó cácbiện pháp cưỡng chếnhà nước rất nghiêm khắc nhưphạt tiền, phạt tù cóthời hạn, tù chung thân … Với sự bảo vệ của nhà nước đã làm cho pháp luật luôn được những tổ chức triển khai và cá thể tôn trọng và triển khai nghiêm chỉnh, có hiệu suất cao trong đời sống xã hội .

Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, gồm những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung

Pháp luật gồm những quy tắc xử sự chung, được bộc lộ trong nhữnghình thứcxác định, có cấu trúc loorrich rất ngặt nghèo và được đặt ra không phải xuất phát từ một trường hợp đơn cử mà là sự khái quát hóa từ rất nhiều những trường hợp có tính phổ cập trong xã hội. Điều này đã làm cho pháp luật pháp luật có tính khái quát hóa cao, là những khuôn mẫu nổi bật để cácchủ thể ( tổ chức triển khai, cá thể ) triển khai theo khi gặp phải những trường hợp mà pháp luật đã dự liệu .Pháp luật mang tính băt buộc chung, những lao lý pháp luật được dự liệu không phải cho một tổ chức triển khai hay cá thể đơn cử mà cho toàn bộ những tổ chức triển khai và cá thể có tương quan. Xuất phát từ vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội ( tổ chức triển khai đại diện thay mặt chính thức cho toàn xã hội ), nên pháp luật là bắt buộc so với toàn bộ, việcthực hiện pháp luật

Pháp luật có tính xác định chặt chẽ về hình thức:

Pháp luật luôn được bộc lộ dưới những hình thức phải nhất định, nói cách khác, những pháp luật pháp luật phải được tiềm ẩn trong cácnguồn luậtnhưtập quán pháp, tiền lệpháp, văn bảnquy phạm pháp luật … Sự xác lập ngặt nghèo về hình thức là điều kiện kèm theo để phân biệt giữa pháp luật với những lao lý không phải là pháp luật, đồng thời, cũng tạo nên sự thống nhất, ngặt nghèo, rõ ràng, đúng mực về nội dung của pháp luật .Ngoài những đặc thù cơ bản nói trên, pháp luật còn có những điểm khác nữa như tính không thay đổi, tính mạng lưới hệ thống …

1. Điều chỉnh quan hệ xã hội là gì?

Điều chỉnh quan hệ xã hội là việc sử dụng những công cụ để tác động ảnh hưởng lên những quan hệ xã hội, làm cho chúng trở nên biến hóa và tăng trưởng theo những mục tiêu, xu thế nhất định nhằm mục đích duy trì và bảo vệ trật tự xã hội. Điều chỉnh quan hệ xã hội thực ra là kiểm soát và điều chỉnh hành vi của những chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm biến hóa hành vi của họ. Hệ thống công cụ kiểm soát và điều chỉnh quan hệ xã hội là tổng thể và toàn diện những loại quy phạm xã hội được hình thành do nhu yếu của đời sống để kiểm soát và điều chỉnh hành vi của con người, kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội nhằm mục đích quản lí xã hội. Hệ thống này được coi là khuôn mẫu, chuẩn mực cho những hành vi ứng xử đơn cử của những chủ thể khi họ tham gia vào những quan hệ xã hội nhất định. Quan hệ xã hội là những quan hệ giữa những chủ thể với nhau phát sinh trong đời sống con người hoạt động giải trí trên tổng thể những nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội như : là quy trình sản xuất và phân phối của cải vật chất, để đạt được mục tiêu của con người trong những nghành nghề dịch vụ về nhu yếu văn hóa truyền thống, ý thức cũng như trong việc bảo vệ quyền lợi của xã hội. Quan hệ xã hội được phân thành hai loại đó là : quan hệ vật chất và quan hệ niềm tin. Quan hệ xã hội sống sót khách quan và không chịu ràng buộc vào ý chí của con người.

Pháp luật là gì?

Pháp luật là mạng lưới hệ thống những quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra, phát hành hoặc là thừa nhận, mang tính bắt buộc phải thực thi và được bảo vệ triển khai bằng những giải pháp giáo dục, cưỡng chế nhằm mục đích kiểm soát và điều chỉnh những mối quan hệ xã hội, bảo vệ quyền và quyền lợi của giai cấp mình .Qua đây hoàn toàn có thể thấy định nghĩa của pháp luật có tiềm ẩn những yếu tố như :

Thứ nhất: Pháp luật được xác định là hệ thống các quy tắc xử sự chung, bao gồm các quy phạm mang tính pháp luật và tính đạo đức, được áp dụng trên phạm vi cả nước, đối với mọi chủ thể trong xã hội

Thứ hai: Pháp luật mang tính bắt buộc chung và được đảm bảo thực hiện. Tức là đối với các quy định của pháp luật được áp dụng chung trong cộng đồng, chủ thể không có quyền đặt ý chí chủ quan của mình vào quyết định là thực hiện hay không.

Vì vậy nên pháp luật cũng bảo vệ cho việc thực thi này bằng những giải pháp giáo dục, tuyên truyền, ở mức độ có hành vi chống đối thì sẽ vận dụng những giải pháp cưỡng chế. Điều này đã góp thêm phần tạo ra sự công minh và bình đẳng trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ thể

Thứ ba: Con đường hình thành của pháp luật là được Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận của Nhà nước đối với những tập quán, tiền lệ đã có sẵn và được nâng lên thành pháp luật

Thứ tư: Bản chất nội dung của pháp luật là nhằm thể hiện ý chí của giai cấp thống trị

Với những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung pháp luật chính là những nhu yếu, yên cầu hoặc được cho phép của nhà nước so với hành vi ứng xử của những chủ thể trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật bộc lộ ý chí của nhà nước ; trải qua pháp luật, nhà nước được cho phép người dân được làm gì, không được cho phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào …Như vậy khi nói đến pháp luật thì thường sẽ nói đến những quy phạm mang tính phổ cập, tức là nói đến những khuôn mẫu chung và có tính phổ cập. Trong xã hội lúc bấy giờ không chỉ pháp luật có tính quy phạm mà đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo, những tổ chức triển khai chính trị-xã hội đều có tính quy phạm .Tính quy phạm của pháp luật được biểu lộ ở chỗ đây chính là khuôn mẫu chung cho nhiều người cùng thực thi và cần phải tuân theo ; khuôn mẫu này sẽ được vận dụng nhiều lần trong khoảng trống và thời hạn và thời hạn to lớn.

Xã hội học xây dựng pháp luật

TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm tắt: Xã hội học xây dựng pháp luật là một loại nghiên cứu pháp lý – xã hội; theo đó, xây dựng pháp luật được tiếp cận dưới góc độ là một hiện tượng xã hội, xem xét các khía cạnh, bản chất xã hội, các bảo đảm cơ sở xã hội học của xây dựng pháp luật, các yếu tố xã hội tác động đến xây dựng pháp luật, cơ chế xã hội của xây dựng pháp luật cũng như hiệu quả, sự tác động ngược trở lại của xây dựng pháp luật đối với đời sống xã hội.

Từ khóa: Xã hội học, xây dựng pháp luật.

Abstract: Sociology of lawmaking is a type of socio-legal study; accordingly, law-making is approached from the perspective of a social phenomenon to consider the concept and nature of sociology so that it is to ensure the sociological basis of law-making, the social factors to impact on law-making, the social mechanism of law-making as well as the effectiveness, the reverse impacts of law-making on social life.

Keywords: Sociology; lawmaking.


Ảnh minh họa : Nguồn internet

1. Bản chất xã hội của xây dựng pháp luật

Trước hết, thiết kế xây dựng pháp luật ( XDPL ) chính là một loại phong cách thiết kế xã hội [ 1 ], gồm có việc dựng cho xã hội một ” bản vẽ “, một bộ khung, quy mô, góp thêm phần vào việc định hình, khuynh hướng xã hội theo một mạng lưới hệ thống những quy ước nhất định. Hoạt động XDPL thực ra là tạo nên những quy phạm pháp luật ( QPPL ) – quy tắc của hành vi – để ảnh hưởng tác động vào những quan hệ xã hội, làm chúng đi theo đúng khuôn khổ mà xã hội mong ước. Các khuôn khổ đó sẽ phân phối quy tắc ứng xử, quy mô hóa hành vi của những thành viên trong xã hội, kiềm chế họ không triển khai hoặc bắt buộc phải thực thi những hành vi nhất định, hoặc sẽ hành xử như thế này mà không phải như thế khác. XDPL tạo ra những khung khổ để biến hóa những hành vi có khuynh hướng cản trở sự tăng trưởng ( đặc biệt quan trọng là hành vi của những công chức nhà nước ) và ngược lại .
XDPL xuất phát từ nhu yếu của xã hội, trong việc kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội. Nhu cầu kiểm soát và điều chỉnh này, cùng những quyền, quyền lợi, phần đông trùng hợp với mong ước của những cá thể, những nhóm trong xã hội. Hoạt động XDPL không những nằm trong quy trình quản lý và vận hành chung của xã hội, mà với những QPPL được kiến thiết xây dựng dữ thế chủ động, mang tính ” đón đầu “, ” phòng ngừa ” xã hội trong quy trình kiểm soát và điều chỉnh, còn biểu lộ sự khuynh hướng xã hội .
XDPL được quản lý và vận hành nhờ những vật liệu phong phú từ đời sống, chịu sự ảnh hưởng tác động nhiều chiều từ những góc nhìn, yếu tố khác nhau trong xã hội. Từ những yếu tố chung như : kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống, xã hội, toàn cảnh quốc tế, ý thức pháp luật, truyền thống lịch sử lịch sử dân tộc cho đến những yếu tố trực tiếp như : tổ chức triển khai, năng lượng, kỹ năng và kiến thức, kỹ thuật soạn thảo, khoanh vùng phạm vi, đặc thù, đối tượng người tiêu dùng kiểm soát và điều chỉnh …
XDPL, đến lượt mình, cũng tác động ảnh hưởng trở lại can đảm và mạnh mẽ đến những góc nhìn xã hội. Nó không chỉ là hoạt động giải trí chủ yếu góp thêm phần tạo nên cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát và điều chỉnh, khuynh hướng những quan hệ xã hội, mà còn là một mạng lưới hệ thống những thông tin xã hội tương ứng được biểu lộ qua nội dung, phương pháp kiểm soát và điều chỉnh của những QPPL. XDPL góp thêm phần quy phạm hóa những chuẩn mực xã hội khác như : đạo đức, phong tục, tập quán, những quy tắc của tổ chức triển khai chính trị, xã hội, làm phong phú phương pháp và ngày càng tăng hiệu suất cao kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội .

2. Cơ chế xã hội trong xây dựng pháp luật

Khác với cơ chế pháp lý trong XDPL, luôn mang tính quyền lực tối cao nhà nước với những quá trình luật định, chính sách xã hội trong XDPL có đặc trưng riêng, là quy trình gắn với sự tham gia của những lực lượng xã hội, gồm công dân, nhóm, tổ chức triển khai, hội nghề nghiệp, những thành phần khác nhau của xã hội dân sự vào việc XDPL của Nhà nước .
Cơ chế xã hội trong XDPL hoàn toàn có thể Open ở quy trình tiến độ này hay quy trình tiến độ khác, hoặc lặp đi lặp lại trong những quy trình tiến độ của quy trình XDPL. Các hình thức của chính sách đó là : nhận ra, phản ánh, thiết lập ; tham gia ; phản kháng, phản biện xã hội và giám sát xã hội trong XDPL .
Nhận biết, phản ánh, thường Open ở quy trình tiến độ đầu của quy trình XDPL. Từ thực tiễn, những thành phần xã hội nhận thức, nhìn nhận về trạng thái, đặc thù, hiệu suất cao của những quy phạm pháp luật hiện hành trong khi kiểm soát và điều chỉnh quan hệ xã hội. Những chưa ổn, thiếu khuyết của pháp luật sẽ được nhận diện. Bất cập hoàn toàn có thể đến từ sự xích míc về quyền lợi, mức độ thiếu thích hợp trong cung ứng nhu yếu xã hội, sự yếu kém về kỹ thuật lập pháp, sự dịch chuyển của những quan hệ xã hội hoặc đến từ những trường hợp xã hội thuộc khoanh vùng phạm vi quản lý của Nhà nước. Những trường hợp xã hội Open lặp đi lặp lại, nhất là trường hợp mang yếu tố không thông thường, không riêng gì giúp cho việc nhận diện yếu tố mà còn cho thấy những lỗ hổng của pháp luật hiện hành, kéo theo nhu yếu phải sửa đổi, bổ trợ những pháp luật của pháp luật tương quan. Ví dụ, việc ngày càng tăng những thanh toán giao dịch về cây hoa phong lan đột biến với giá hàng chục, hàng trăm tỷ đồng đã lôi cuốn không ít người lao vào góp vốn đầu tư với mong ước kiếm siêu lợi nhuận vì tin rằng sẽ có người bỏ tiền nhiều hơn để mua lại. Các hành vi lừa đảo theo đó cũng ngày càng tăng, dẫn đến nhiều nghi vấn về tính xác nhận của thanh toán giao dịch. Ở góc nhìn pháp lý, nhiều quan điểm cho rằng, để những trường hợp xã hội dạng này ngày càng Open là do những chưa ổn về pháp luật. Cụ thể, trong trường hợp nếu hộ mái ấm gia đình, cá thể trực tiếp tham gia vào hoạt động giải trí sản xuất nông nghiệp ( trồng trọt ) chưa qua chế biến thành những loại sản phẩm khác, thì mẫu sản phẩm nông nghiệp trong trường hợp này không chịu thuế giá trị ngày càng tăng theo lao lý tại khoản 1 Điều 1 Luật Thuế giá trị ngày càng tăng năm năm nay và được miễn thuế thu nhập cá thể theo lao lý tại Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá thể năm 2007. Theo đó, việc xem xét, bổ trợ những lao lý về thuế và chính sách trấn áp so với loại trường hợp pháp lý này sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc minh định những thanh toán giao dịch, giúp dân cư không bị cuốn vào những thanh toán giao dịch tiềm ẩn đầy rủi ro đáng tiếc, không ổn định hoàn toàn có thể làm đảo lộn đời sống và mất trật tự bảo mật an ninh .
Gắn liền với nhận thức, hoạt động giải trí phản ánh sẽ diễn ra, nhằm mục đích tái hiện những yếu tố xã hội – pháp lý tương quan đến những đặc trưng, hệ quả xã hội hoặc đặc thù của những QPPL, nhằm mục đích đạt được những nhu yếu từ thực tiễn. Một bộc lộ thông dụng trong chính sách nhận thức, phản ánh là dư luận xã hội. Dư luận xã hội là những quan điểm còn lại sau quy trình nghiên cứu và phân tích, nhìn nhận của những thành phần xã hội về những yếu tố mà họ cảm thấy có ý nghĩa hoặc động chạm đến quyền lợi, giá trị chung. Thông qua dư luận xã hội, quy trình nhận ra, phản ánh trong XDPL của những thành phần xã hội được công khai minh bạch, update .
Sự tham gia trong XDPL là quy trình người dân, những lực lượng xã hội hoàn toàn có thể góp thêm phần hoạt động giải trí của mình vào thiết kế xây dựng những quyết định hành động, chủ trương pháp luật có ảnh hưởng tác động đến hành vi, những quyền và quyền lợi của họ. Sự tham gia của xã hội vào XDPL thường thì đến từ những đối tượng người dùng chịu sự tác động ảnh hưởng trực tiếp từ những văn bản QPPL, những đối tượng người dùng khác chịu sự tác động ảnh hưởng của những dự thảo văn bản QPPL, của những tổ chức triển khai xã hội, chuyên viên, hoặc từ những chủ thể khác trong đối sánh tương quan với nhận thức, mức độ chăm sóc của họ đến XDPL. Các đối tượng người dùng chịu sự ảnh hưởng tác động trực tiếp của văn bản QPPL thuộc nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ nhỏ, người khuyết tật, chính sách tham gia có những đặc trưng, tác động ảnh hưởng từ yếu tố sức khỏe thể chất, ý thức của nhóm. Sự tham gia của những chuyên viên, nhà khoa học có ý nghĩa quan trọng, bởi họ thường có tri thức, kỹ năng và kiến thức, ngày càng tăng thời cơ thiết kế xây dựng được những VBQPPL có chất lượng, hiệu suất cao. Sự tham gia của những đối tượng người dùng có quyền lợi tương quan hoàn toàn có thể làm cho họ hành xử khác đi. Đặc biệt, khi sự tham gia không phải với tư cách là những đối tượng người tiêu dùng điều tra và nghiên cứu thụ động, mà với tư cách là những chủ thể tích cực, dữ thế chủ động vào những chương trình nghiên cứu và phân tích được thực thi ” sẽ thôi thúc một chương trình lập pháp ngày càng dân chủ ” [ 2 ] .

Ở Việt Nam, sự tham gia của xã hội vào XDPL được ghi nhận tại Điều 28 Hiến pháp năm 2013, cụ thể hóa tại Điều 5 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 “bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản QPPL”. Cơ chế tham gia của xã hội vào XDPL không chỉ đảm bảo quyền của công dân, nhằm thu hút, phát huy năng lực sáng tạo của nhân dân mà còn gia tăng trách nhiệm của Nhà nước trong quá trình tạo ra các sản phẩm pháp luật đáp ứng nhu cầu xã hội, phục vụ con người[3].

Phản biện, phản kháng xã hội: Phản biện xã hội trong XDPL là việc bày tỏ ý kiến một cách có hệ thống và có cơ sở khoa học đối với các chính sách, pháp luật ở những công đoạn nhất định của quá trình XDPL, là “nhận diện, tìm ra điểm đúng, sai, bất hợp lý của chính sách được đưa ra để giải quyết vấn đề phát sinh, từ đó có thể kiến nghị điều chỉnh hay thậm chí là hủy bỏ chính sách đó, đề xuất chính sách mới, phù hợp hơn để giải quyết vấn đề”[4]. Nhờ cơ chế phản biện, mức độ tương thích, hiệu quả của chính sách pháp luật sẽ được nhận diện, những lập luận, đề xuất đưa ra sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách pháp luật khi được ban hành. Phản biện có thể diễn ra trực tiếp tại các hội nghị lấy ý kiến, tiếp xúc cử tri của đại biểu dân cử hoặc thông qua việc đăng tải ý kiến trên phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các tổ chức mà mình là thành viên hoặc qua việc đối thoại với các chủ thể có văn bản được phản biện.

Phản kháng xã hội trong XDPL có mục tiêu vô hiệu hoặc kiềm chế việc thiết kế xây dựng hoặc phát hành những chủ trương, pháp luật mà những chủ thể phản kháng thấy không hài hòa và hợp lý, không có ích cho xã hội, hội đồng. Phản kháng và phản biện xã hội trong XDPL không trọn vẹn giống nhau, nhưng đều là những phương pháp bộc lộ thái độ, phản ứng tích cực của xã hội so với những yếu tố tương quan đến XDPL, nhằm mục đích hướng tới chất lượng, hiệu suất cao của những loại sản phẩm lập pháp, lập quy .
Giám sát xã hội trong XDPL là việc công dân, những thành phần xã hội, trải qua những phương pháp được pháp luật pháp luật, thực thi quan sát, theo dõi, kiểm tra hoạt động giải trí XDPL của những chủ thể có thẩm quyền xem có đúng đắn, hợp pháp, hài hòa và hợp lý, chất lượng, hiệu suất cao không. Cách thức giám sát hoàn toàn có thể qua khiếu nại, tố cáo, qua báo chí truyền thông, phương tiện đi lại truyền thông online đại chúng hoặc qua việc thực thi dân chủ ở cơ sở trong tương quan đến quy trình XDPL.
Các hình thức của chính sách xã hội của XDPL có quan hệ mật thiết, tiếp nối, hòa trộn trong quy trình XDPL. Để giám sát, cần nhận ra, phản ánh và ngược lại. Giám sát cung ứng tài liệu sôi động cho quy trình phản kháng, phản biện xã hội, nhằm mục đích hướng tới chất lượng, hiệu lực thực thi hiện hành thực sự của pháp luật. Ở góc nhìn tích cực nhất, những chính sách xã hội của XDPL là biểu lộ can đảm và mạnh mẽ sự tham gia phong phú, dữ thế chủ động của nhân dân vào hoạt động giải trí XDPL, cũng là sự cạnh tranh đối đầu thiết yếu trong đối sánh tương quan với việc nâng cao chất lượng, hiệu suất cao của cơ chế pháp lý của XDPL .

3. Bảo đảm cơ sở xã hội học trong xây dựng pháp luật

Bảo đảm cơ sở xã hội học của XDPL là những yếu tố làm cho XDPL chắc như đinh được thực thi, duy trì hoặc có khá đầy đủ nhữnggìcần thiết để tiến hành hiệu suất cao. ” Trong xã hội học pháp luật, hoạt động giải trí tích lũy và nghiên cứu và phân tích thông tin xã hội thiết yếu cho việc soạn thảo có hiệu quả những QPPL được hiểu là cơ sở xã hội học của hoạt động giải trí XDPL ” [ 5 ]. Nội dung bảo vệ cơ sở xã hội học trong XDPL gồm :
– tin tức xã hội học về chủ trương pháp luật
Là một trong những chủ trương công có vị trí quan trọng trong đời sống pháp lý, chủ trương pháp luật là ” kế hoạch hoạt động giải trí của Nhà nước trong nghành nghề dịch vụ kiểm soát và điều chỉnh pháp luật, cũng như hoạt động giải trí phản ánh những quyền lợi xã hội trong việc phân chia lại những nghành nghề dịch vụ tác động ảnh hưởng của những kiểm soát và điều chỉnh xã hội khác nhau ” [ 6 ]. XDPL cần phải có những thông tin xã hội học về chủ trương pháp luật vì, ” chủ trương là nội dung, văn bản pháp luật là vỏ bọc tiềm ẩn những chủ trương đó dưới dạng ngôn từ và hình thức pháp lý ” [ 7 ]. Thông tin xã hội học về chủ trương pháp luật cơ bản đến từ quy trình nghiên cứu và phân tích chủ trương. Quá trình này thiết yếu, bởi nó bảo vệ tiềm năng của pháp luật là Giao hàng quyền lợi công cộng hoặc một bộ phận nhất định trong công chúng ; giúp cho những nhà lập pháp hiểu rõ ” mức độ ảnh hưởng tác động của những giải pháp cưỡng chế thi hành tới đâu và lường trước những phản ứng ngược lại ; đặt mẫu sản phẩm lập pháp trong một chuỗi những hoạt động giải trí theo trật tự cố định và thắt chặt, từ lúc nhận ra nhu yếu, xác lập giải pháp, phong cách thiết kế giải pháp, cho đến lúc trải qua ; giúp phân biệt mối liên hệ của văn bản chuẩn bị sẵn sàng phát hành với những văn bản cùng nghành, từ đó tăng tính hiệu suất cao ; hướng tới mức độ thích hợp giữa ngân sách và quyền lợi để xem xét xem có cần phát hành văn bản QPPL đó hay không [ 8 ]. Trong quy trình nghiên cứu và phân tích chủ trương, sự tham vấn thoáng đãng quan điểm của quần chúng, những bộ ngành tương quan sẽ góp thêm phần nâng cao chất lượng, làm minh bạch hóa, đời sống hóa hoạt động giải trí XDPL .
– tin tức xã hội học về hiệu suất cao của những QPPL hiện hành
tin tức xã hội học về hiệu suất cao của QPPL hiện hành là hàng loạt những ” tác dụng như nhu yếu ” của QPPL, những thông tin, tài liệu thu nhận dưới góc nhìn xã hội về quy trình QPPL phát huy giá trị, vai trò của nó trong khi kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội tương quan. Các thông tin này hoàn toàn có thể là : mức độ phân phối về tiềm năng, khoanh vùng phạm vi, đặc thù kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội trực tiếp của QPPL ; hiệu quả của việc kiểm soát và điều chỉnh ở cả góc nhìn tích cực, xấu đi, nguyên do dẫn tới những hiệu quả đó ; mức độ tương tác của QPPL với những QPPL tương quan và với cả mạng lưới hệ thống pháp luật ; mức độ hiện thực hóa những dự báo của QPPL trong quy trình phát hành trước đó ; những nhu yếu đặt ra cùng những giải pháp đơn cử để liên tục hoàn thành xong QPPL, phân phối tiềm năng kiểm soát và điều chỉnh xã hội. Thông tin xã hội học về hiệu suất cao của QPPL hiện hành cũng chính là một trong những nguyên do dẫn đến hoạt động giải trí XDPL. Nhờ những thông tin này, mà những chủ thể có thẩm quyền nhận thức được trạng thái của QPPL hiện hành dưới góc nhìn hiệu suất cao xã hội, từ đó có những ứng xử tương thích tương quan đến những văn bản pháp luật sắp phát hành một cách thực ra, tránh hình thức, phiến diện. Qua những thông tin về hiệu suất cao xã hội của QPPL hiện hành, những chủ thể kiến thiết xây dựng pháp luật có cơ sở thực tiễn để xem xét kỹ lưỡng việc phát hành QPPL tương quan .
– tin tức xã hội học về nhu yếu và những quyền lợi pháp lý – xã hội
Nhu cầu là những yên cầu, mong ước củacon ngườivề vật chất, ý thức hoặc sự vật, hiện tượng kỳ lạ nào đó như là điều kiện kèm theo để sống sót và tăng trưởng. Lợi ích, ở một góc nhìn nhất định, nó ” như thể nhu yếu khách quan được chế định bởi vị trí xã hội của một cá thể, một dân tộc bản địa, một nhóm xã hội nào đó ”, ” là sự phản ánh chủ quan những nhu yếu sống sót khách quan ” [ 9 ], ” là mối quan hệ lựa chọn đã được nhận thức của nhu yếu ” [ 10 ]. Trong thực tiễn, có rất nhiều nhu yếu và những quyền lợi pháp lý – xã hội với những đặc thù và mức độ khác nhau cần phải được nhận thức trong quy trình XDPL. Đó hoàn toàn có thể là những nhu yếu, quyền lợi chung thuộc tổng thể những nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội, hoàn toàn có thể là nhu yếu của cá thể, tổ chức triển khai, những nhóm hội đồng nhất định tương ứng. Việc xác lập đúng chuẩn thông tin về nhu yếu và những quyền lợi pháp lý – xã hội tương quan trong XDPL giúp cho việc lựa chọn được những nhu yếu, quyền lợi mang tính ưu tiên, tương thích với thực tiễn, trong đối sánh tương quan với sự kiểm soát và điều chỉnh trực tiếp của quy phạm pháp luật sắp phát hành. ” Ở đây cần phải xử lý hai trách nhiệm có mối liên hệ ngặt nghèo với nhau : bảo vệ việc tích lũy thông tin không thiếu và đúng mực về những quyền lợi xã hội, những quyền lợi pháp luật và có năng lực phân biệt quyền lợi khách quan với những quyền lợi chủ quan ” [ 11 ] .
Để xác lập được nhu yếu, quyền lợi mang tính ưu tiên dẫn đến những ưu tiên trong XDPL, cần địa thế căn cứ vào những thông tin như : sự nghiêm trọng của yếu tố xã hội cần kiểm soát và điều chỉnh, khoanh vùng phạm vi những yếu tố xã hội được xác lập tác động ảnh hưởng đến dân chúng, ai nằm trong nhóm bị ảnh hưởng tác động ; ảnh hưởng tác động xã hội của những văn bản QPPL được đề xuất kiến nghị, ai được lợi, ai chịu thiệt và trong khoanh vùng phạm vi nào [ 12 ] … Các tiêu chuẩn xác lập việc ưu tiên trong XDPL hoàn toàn có thể dựa vào việc xử lý những yếu tố : ” Cải thiện chất lượng quản lý nhà nước không, như thế nào ? tạo thêm nhiều thời cơ việc làm không ? Nâng cao sản xuất, sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ để cung ứng nhu yếu cơ bản của đại bộ phận dân chúng không ? Nâng cao sự công minh không, nâng cao như thế nào ? ” [ 13 ]. Thông tin xã hội học về nhu yếu và những quyền lợi pháp lý-xã hội sẽ giúp những cơ quan kiến thiết xây dựng pháp luật sử dụng những dữ kiện thực tiễn để quyết định hành động dành những nguồn lực cho dự luật nào và theo thứ tự thế nào .
– tin tức xã hội học về chính sách hoạt động giải trí pháp lý – xã hội của những QPPL được soạn thảo
Cơ chế hoạt động giải trí pháp lý – xã hội của những QPPL được soạn thảo là phương pháp, quy trình những QPPL hiện thực hóa việc tác động ảnh hưởng đến những quan hệ xã hội mà nó kiểm soát và điều chỉnh, trong đối sánh tương quan với những yếu tố tác động ảnh hưởng, điều kiện kèm theo bảo vệ của xã hội và pháp luật. Cơ chế này là sự phối hợp giữa quy trình kiểm soát và điều chỉnh xã hội của pháp luật, trải qua những yếu tố pháp lý đặc trưng với quy trình tham gia của những thành phần, yếu tố xã hội khác. Thông tin xã hội học về chính sách hoạt động giải trí pháp lý – xã hội của QPPL được soạn thảo phân phối một họa đồ những quy trình kiểm soát và điều chỉnh pháp luật của QPPL trong xã hội, trong đối sánh tương quan với quy trình kiểm soát và điều chỉnh của những QPPL tương quan. Từ đó, hoàn toàn có thể nhận diện được sự tương thích hay không của QPPL trong quy trình kiểm soát và điều chỉnh, mức độ phân phối những nhu yếu của xã hội, mức độ thích hợp của QPPL trong mạng lưới hệ thống pháp luật nói chung, hiệu suất cao kiểm soát và điều chỉnh của QPPL đó ra làm sao .
Thông qua chính sách hoạt động giải trí pháp lý – xã hội của QPPL được soạn thảo, ảnh hưởng tác động của những yếu tố như : kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống, xã hội, những quy phạm xã hội khác như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo cũng được xem xét. Việc nghiên cứu và phân tích tình hình và tìm lời giải cho mối đối sánh tương quan giữa những yếu tố pháp lý với những yếu tố xã hội, giữa những quy phạm pháp luật với những quy phạm xã hội như đạo đức, tập quán cũng sẽ giúp thôi thúc hay cản trở việc đạt được những mục tiêu, nhu yếu của pháp luật trong tương lai .
– tin tức dự báo về hiệu suất cao, ảnh hưởng tác động xã hội của QPPL sẽ được phát hành
” Dự báo pháp luật là loại nghiên cứu và điều tra nhằm mục đích mục tiêu Dự kiến những trạng thái tương lai của pháp luật và của những hiện tượng kỳ lạ do pháp luật pháp luật, mang đặc thù Xác Suất, nhiều giải pháp ” [ 14 ]. Mặc dù, chỉ mang đặc thù Dự kiến tương lai, Dự kiến những đổi khác tiếp theo của trạng thái hiện có, nhưng dự báovề hiệu suất cao, ảnh hưởng tác động xã hội của QPPL sẽ được phát hành được xem là một trong những bảo vệ quan trọng của XDPL. Bởi lẽ, nó phân phối những thông tin mang tính báo trước về tình hình hiệu suất cao, ảnh hưởng tác động xã hội của QPPL sẽ được phát hành có nhiều năng lực sẽ xảy ra, dựa trên cơ sở những số liệu, những thông tin đã có. Thông thường, những dự báo sẽ được gửi kèm những dự án Bất Động Sản đề xuất kiến nghị kiến thiết xây dựng hoặc dự thảo văn bản QPPL, và càng nhiều thông tin về dự báo càng tốt cho quy trình quyết định hành động của chủ thể có thẩm quyền. Ở Lever cơ bản nhất, những dự báo phải chỉ rõ được ai sẽ là người được hưởng lợi, ai sẽ là người chịu tác động ảnh hưởng ; những ngân sách của cơ quan chính phủ ; tác động ảnh hưởng của QPPL với những quan hệ xã hội mà nó kiểm soát và điều chỉnh cùng đối sánh tương quan với mạng lưới hệ thống những QPPL tương quan ; mức độ trật tự và sự không thay đổi của những quan hệ xã hội sau khi được kiểm soát và điều chỉnh ; thực trạng pháp chế trong đời sống xã hội ; những quyền lợi vật chất và niềm tin được tạo ra ; những hiện tượng kỳ lạ và những quy trình khác của đời sống xã hội hoàn toàn có thể xảy ra khi chịu sự tác động ảnh hưởng của pháp luật và quy trình kiểm soát và điều chỉnh pháp luật …

4. Các yếu tố tác động đến xây dựng pháp luật

Yếu tố ảnh hưởng tác động là những yếu tố làm cho quy trình XDPL có những ảnh hưởng tác động, biến hóa nhất định. Đó hoàn toàn có thể là những yếu tố chung như : kinh tế tài chính, chính trị, văn hóa truyền thống, toàn cảnh quốc tế, pháp luật, cũng hoàn toàn có thể là những yếu tố đơn cử như : năng lượng kiến thiết xây dựng pháp luật, yếu tố tổ chức triển khai, dư luận xã hội, cơ sở vật chất, kinh phí đầu tư …
Kinh tế là yếu tố mang tính nền tảng, ảnh hưởng tác động đến XDPL ở nhiều góc nhìn, từ đặc thù, cơ cấu tổ chức cho đến nội dung, ” kinh tế tài chính đóng vai trò link, quyết định hành động cả trong sự hình thành một loạt chế định của những ngành pháp luật khác, như chính sách tiền lương trong Luật lao động hoặc chế định tiền trợ cấp và chiếm hữu của vợ chồng trong pháp luật hôn nhân gia đình mái ấm gia đình … ; trong sự hình thành và hoạt động giải trí của pháp luật về đất đai, tài nguyên vạn vật thiên nhiên ” [ 15 ] .
Chính trị, theo nghĩa chung nhất, là sự không thay đổi, bền vững và kiên cố của thể chế, của mạng lưới hệ thống chính trị, góp thêm phần tạo lập môi trường tự nhiên thuận tiện cho XDPL. Cụ thể hơn, chính trị biểu lộ qua chủ trương, chủ trương của đảng cầm quyền, là cơ sở tư tưởng cho quy trình thể chế hóa hành pháp luật của Nhà nước, cung ứng những khuynh hướng tăng trưởng cho những nghành nghề dịch vụ kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, chính trị, xã hội .
Yếu tố pháp luật có ảnh hưởng tác động can đảm và mạnh mẽ đến XDPL. Nó không chỉ biểu lộ đặc thù, mức độ kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ xã hội, nguyên do của việc XDPL mà còn tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động giải trí này. Hệ thống pháp luật hiện hành có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến quy trình XDPL bởi nó thể hiện đặc thù, khoanh vùng phạm vi kiểm soát và điều chỉnh cũng như sự thiếu vắng, mức độ, sự thiết yếu phải sửa đổi, bổ trợ. Đặc biệt, những pháp luật về tiến trình, thủ tục, thẩm quyền, cũng như nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong XDPL sẽ tác động ảnh hưởng đến chất lượng, phương pháp XDPL .
Văn hóa nói chung, văn hóa truyền thống pháp luật nói riêng cũng có tác động ảnh hưởng không nhỏ đến XDPL. Nó chi phối nhận thức, thái độ, kiến thức và kỹ năng của chủ thể có thẩm quyền, đồng thời tác động ảnh hưởng đến mức độ chăm sóc, tham gia của những chủ thể khác trong xã hội vào quy trình kiểm tra, giám sát, góp phần quan điểm trong XDPL. Nếu ý thức pháp luật của những cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước mang tính tích cực, coi trọng trách nhiệm, đạo đức công vụ, sẽ góp thêm phần nâng cao chất lượng, tạo niềm tin cho những chủ thể tương quan trong XDPL .
Yếu tố năng lượng XDPL là năng lực tạo ra được những dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng, hiệu suất cao, thuộc về đội ngũ những chủ thể có thẩm quyền XDPL. Nó được tạo nên bởi một tổng thể và toàn diện gồm năng lượng trình độ, năng lực phân phối tiềm năng, nghĩa vụ và trách nhiệm về lòng trung thành với chủ, tính cẩn mật, năng lực chấm hết hoặc phủ nhận tuân theo những chỉ huy hoàn toàn có thể gây tác động ảnh hưởng đến tính minh bạch, chất lượng của quy trình XDPL. Năng lực XDPL là yếu tố ảnh hưởng tác động mang tính quyết định hành động so với chất lượng của những văn bản QPPL được phát hành, bởi nó trực tiếp biến những chủ trương, chủ trương, khuynh hướng chính trị, mong ước, nhu yếu của xã hội … thành những pháp luật đơn cử của pháp luật, cái sẽ tác động ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của những chủ thể tương quan .
Dư luận xã hội là yếu tố để những lực lượng xã hội biểu lộ quan điểm của mình về những yếu tố xã hội, trong đó có hoạt động giải trí XDPL. Dư luận xã hội góp thêm phần tạo điều kiện kèm theo để những những tầng lớp nhân dân phát huy quyền làm chủ, biểu lộ ý chí, lan rộng ra nền dân chủ xã hội, tích cực tham gia vào quy trình XDPL. Dư luận xã hội cũng là nguồn thông tin phản hồi có ý nghĩa quan trọng và thiết thực với XDPL, bởi mọi vướng mắc, thiếu vắng, khe hở của pháp luật đều hoàn toàn có thể được nhận diện qua dư luận, từ đó giúp chủ thể có thẩm quyền ra những văn bản, quyết định hành động tương thích lòng dân. Dư luận xã hội cũng có sức mạnh to lớn trong việc khuynh hướng, kiểm soát và điều chỉnh hành vi của những thành viên trong xã hội, trong đó có hành vi của những chủ thể trực tiếp triển khai hoạt động giải trí XDPL, để những chủ thể này lắng nghe dư luận một cách tráng lệ, có những nghiên cứu và phân tích khoa học để rút ra được những Kết luận đúng mực về tình hình những quan hệ xã hội đang cần có pháp luật kiểm soát và điều chỉnh [ 16 ] .
Yếu tố tổ chức triển khai cũng rất cần cho XDPL, vì suy cho cùng, mọi hoạt động giải trí muốn đạt hiệu suất cao, bắt buộc phải được tổ chức triển khai tốt. Yếu tố tổ chức triển khai trong XDPL đến từ nhiều góc nhìn, từ việc sắp xếp hài hòa và hợp lý về cơ cấu tổ chức những chủ thể chịu nghĩa vụ và trách nhiệm, cho đến tính khả thi của mọi quy trình khi tiến hành. Tất cả đều phải được nghiên cứu và điều tra, thống kê giám sát hài hòa và hợp lý, khoa học, có kế hoạch đơn cử. Trong quy trình đó, nghĩa vụ và trách nhiệm của những cá thể phải được phát huy cao nhất, những bước, quy trình phải có lộ trình và khả thi .
Yếu tố ngân sách và cơ sở vật chất trong thực tiễn cũng tác động ảnh hưởng lớn tới quy trình XDPL. Nó không chỉ làm cho hoạt động giải trí XDPL quản lý và vận hành trôi chảy, mà còn chi phối cả đến thời hạn triển khai xong, khoanh vùng phạm vi, đặc thù của văn bản pháp luật được soạn thảo. Nếu kinh phí đầu tư, cơ sở vật chất thiếu thốn, không phân phối nhu yếu, không hài hòa và hợp lý, thì những chủ thể có thẩm quyền khó bảo vệ quá trình tiến hành trách nhiệm, việc tổ chức triển khai cho những thành phần xã hội, cơ quan, tổ chức triển khai và người dân tham gia XDPL theo lao lý ở những quy trình cũng khó đạt chất lượng như mong ước .
Các yếu tố cơ bản nêu trên, trong quy trình ảnh hưởng tác động đến XDPL luôn có ảnh hưởng tác động nhất định đến nhau, tác động ảnh hưởng đến XDPL cả ở góc nhìn tích cực lẫn xấu đi. Việc xem xét, nghiên cứu và điều tra những yếu tố ảnh hưởng tác động đến XDPL là một góc nhìn quan trọng của những điều tra và nghiên cứu pháp lý xã hội thuộc nghành XDPL. Nó giúp việc nhận diện mức độ, đặc thù tác động ảnh hưởng, ảnh hưởng tác động của những tác nhân xã hội, đồng thời phản ảnh nhu yếu của xã hội so với quy trình kiểm soát và điều chỉnh những nghành nghề dịch vụ quan hệ xã hội nhất định. Từ đó, hoàn toàn có thể đưa ra những giải pháp, giải pháp tối ưu, nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động giải trí và loại sản phẩm của XDPL .

5. Tác động xã hội trong xây dựng pháp luật

Như đã trình diễn, XDPL chính là một loại phong cách thiết kế xã hội, XDPL trước hết là việc quy phạm hóa những hành vi mang tính nổi bật, thông dụng của những chủ thể trong xã hội vào khoanh vùng phạm vi kiểm soát và điều chỉnh của pháp luật. Từ đó, tạo ra một khung khổ pháp lý cho những quan hệ xã hội quản lý và vận hành theo đúng mong ước của Nhà nước và hội đồng xã hội, tạo tiền đề cho một xã hội trật tự, không thay đổi, tăng trưởng. ” XDPL là việc biến ý chí của Nhà nước thành pháp luật và tạo cho nó một đặc tính pháp lý, nó cũng biến những nhu yếu của người dân thành pháp luật – nhu yếu mang tính quyền lực tối cao ” [ 17 ] .
XDPL cũng là hoạt động giải trí tạo nên sự liên kết giữa những thành viên trong quy trình tham gia vào những chính sách xã hội – pháp lý của XDPL. Sự liên kết hoàn toàn có thể qua việc cùng tạo nên dư luận xã hội về một yếu tố nhất định mà hội đồng chăm sóc, cũng hoàn toàn có thể qua việc góp phần quan điểm, tham gia, phản biện, phản kháng hoặc kiểm tra, giám sát quy trình XDPL của những chủ thể có thẩm quyền. XDPL thế cho nên, có công dụng tạo ra những link và đồng thuận xã hội giữa những thành viên. ” Cân nhắc những yếu tố có tầm quan trọng vương quốc, những yếu tố và nhu yếu của công chúng là một công dụng quan trọng của lập pháp văn minh. Thông qua công dụng này, lập pháp phản ánh dư luận xã hội về nhiều yếu tố khác nhau. Các cuộc tranh luận được tổ chức triển khai trong quy trình lập pháp có giá trị giáo dục rất lớn so với người dân. ” [ 18 ]
Thông qua XDPL, người dân, những lực lượng khác nhau trong xã hội biểu lộ quan điểm, nhu yếu, nguyện vọng của mình, cũng chính là những nhu yếu so với Nhà nước trong quy trình hiện thực hóa những quyền mà nhân dân phó thác. XDPL cũng chính là quy trình hiện thực hóa những quyền con người, hiện thực hóa chủ quyền lãnh thổ nhân dân và những nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước. ” Khi Nhà nước đề ra một chủ trương và sau đó cam kết triển khai chủ trương đó, thì những nhà soạn thảo pháp luật phải chuyển hóa chủ trương đó thành lao lý của pháp luật để cho những cán bộ nhà nước khác thực thi. Sau cùng, Nhà nước chỉ có một con đường là thực thi những chủ trương của mình trải qua việc phát hành và thực thi pháp luật ” [ 19 ] .
XDPL đôi lúc cũng làm cản trở tiến trình dân chủ, hạn chế những quyền con người, nếu quy trình thiết kế xây dựng diễn ra một cách hình thức, không biểu lộ được ý chí, nguyện vọng cũng như sự tham gia của những thành phần xã hội, đặc biệt quan trọng, khi loại sản phẩm của quy trình XDPL là những văn bản QPPL có chất lượng kém, không cung ứng nhu yếu hoặc xích míc với mạng lưới hệ thống pháp luật đã phát hành .
Như vậy, xã hội học XDPL là loại điều tra và nghiên cứu pháp lý-xã hội nhằm mục đích nhận thức hoạt động giải trí XDPL một cách sôi động nhất, gắn liền với hơi thở của xã hội. Thông qua những góc nhìn xã hội trong hoạt động giải trí XDPL, vai trò của những thành phần xã hội ngày càng được nhìn nhận trong quy trình XDPL ; đồng thời, hoạt động giải trí XDPL lập pháp được bảo vệ bởi cơ sở xã hội vững chãi góp thêm phần nâng cao chất lượng, tính khả thi của những văn bản QPPL trong thực tiễn. / .

[ 1 ] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật – những yếu tố cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Thành Phố Hà Nội, năm ngoái, tr. 268 .
[ 2 ] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Soạn thảo lao lý vì tân tiến xã hội dân chủ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, tr. 197 .
[ 3 ] Xem Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Thị Minh Hà, Thúc đẩy sự tham gia của người dân trong hoạt động giải trí XDPL ở Nước Ta cung ứng yêu câu cả cách tiếp cận dựa trên quyền con người, in trong sách “ Sự tham gia của xã hội vào quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên quốc tế và ở Nước Ta ”, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Thành Phố Hà Nội, 2020, tr. 125 – 150
[ 4 ] Lê Thị Thiều Hoa, Phản biện xã hội và vai trò của phản biện xã hội ở Nước Ta lúc bấy giờ, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12 ( 412 ), tháng 6/2020, http://www.lapphap.vn/Pages/TinTuc/210566/Phan-bien-xa-hoi-va-vai-tro-cua-phan-bien-xa-hoi-o-Viet-Nam-hien-nay.html .

[ 5 ] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật – những yếu tố cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Thành Phố Hà Nội, năm ngoái, tr. 275 .
[ 6 ] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật – những yếu tố cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, TP.HN, năm ngoái, tr. 195 .
[ 7 ] Nguyễn Đức Lam, Phân tích chủ trương trong quá trình lập pháp ở những nước, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/04/06/2615/ .
[ 8 ] Nguyễn Đức Lam, Phân tích chủ trương trong quá trình lập pháp ở những nước, https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2009/04/06/2615/
[ 9 ] V.I. Pripisnov được dẫn theo bài viết “ Lợi ích và vai trò động lực của nó so với sự tăng trưởng xã hội – PhầnI ”, https://caphesach.wordpress.com/2017/04/05/loi-ich-va-vai-tro-dong-luc-cua-no-doi-voi-su-phat-trien-xa-hoi-phan-i/ .
[ 10 ] N.A. Gnilickij được dẫn theo bài viết “ Lợi ích và vai trò động lực của nó so với sự tăng trưởng xã hội – PhầnI ”, https://caphesach.wordpress.com/2017/04/05/loi-ich-va-vai-tro-dong-luc-cua-no-doi-voi-su-phat-trien-xa-hoi-phan-i/ .
[ 11 ] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật – những yếu tố cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, TP.HN, năm ngoái, tr. 289 .
[ 12 ] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Soạn thảo pháp luật vì tân tiến xã hội dân chủ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, tr. 64 .
[ 13 ] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Xem xét Dự án Luật, Cẩm nang cho những nhà lập pháp, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2004, tr. 39 .
[ 14 ] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật – những yếu tố cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, TP. Hà Nội, năm ngoái, tr. 541 .
[ 15 ] Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật – những yếu tố cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, TP.HN, năm ngoái, tr. 241 .
[ 16 ] Trường Đại học Luật Thành Phố Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật, Nxb. Tư pháp, năm 2018, tr. 253 – 255 .
[ 17 ] Legislature : Meaning, Functions and Types of Legislature. Article shared by KKGhai, https://www.yourarticlelibrary.com/constitution/legislature-meaning-functions-and-types-of-legislature/40337 .

[18] Legislature: Meaning, Functions and Types of Legislature. Article shared by KKGhai, https://www.yourarticlelibrary.com/constitution/legislature-meaning-functions-and-types-of-legislature/40337.

[ 19 ] Ann Seidman, Robert B. Seidman, Nalin Abeyesekere, Soạn thảo Luật pháp vì văn minh xã hội dân chủ, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2003, tr. 13 .

(Nguồn tin: Bài viết được đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 10 (434), tháng 5/2021.)

Source: https://vvc.vn
Category : Pháp luật

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay