Công tắc đèn xi nhan ô tô được sắp xếp trong công tắc nguồn tổng hợp nằm dưới tay lái, gạt công tắc nguồn này sang phải hoặc sang trái sẽ làm cho đèn xi nhan ô tô phải hay trái .
Khi bật công tắc đèn báo nguy nó sẽ làm cho tất cả các đèn xi nhan ô tô đều nháy.
Hình 2.19: Vị trí công tắc đèn báo nguy
Bộ tạo nháy của đèn cảnh báo nguy hiểm trên ô tô
Bộ tạo nháy làm cho những đèn xi nhan ô tô nháy theo một tần số định trước. Bộ tạo nháy dùng cho cả đèn xi nhan ô tô và báo nguy. Bộ tạo nháy có nhiều dạng : cơ điện, cơ bán dẫn hoặc bán dẫn tuần hoàn .
Bộ tạo nháy kiểu cơ – điện
Bộ tạo nháy này ( hình 2.20 ) gồm có một tụ điện, những cuộn dây L1, L2 và những tiếp điểm .
Dòng điện đến đèn xi nhan ô tô chạy qua cuộn L1 và dòng điện qua tụ băng qua cuộn L2. Cuộn L1 và L2 được quấn sao cho khi tụ điện được nạp, hướng vào từ trường trong hai cuộn khử lẫn nhau và khi tụ điện đang phóng hướng của từ trường trong hai cuộn phối hợp lại. Các tiếp điểm được đóng bởi lực lò xo. Một điện trở mắc song song với những tiếp điểm để tránh phóng tia lửa giữa những tiếp điểm khi bộ tạo nháy hoạt động giải trí .
Nguyên lý hoạt động đèn xi nhan ô tô và đèn cảnh báo nguy hiểm trên ô tô
Khi bật công tắc nguồn máy, dòng điện từ accu đến tiếp điểm và đến tụ điện qua cuộn L2 nạp cho tụ, tụ được nạp đầy .
Hình 2.20: Hoạt động của bộ nháy cơ – điện khi bật công tắc máy
Khi công tắc nguồn báo rẽ bật sang phải hoặc sang trái, dòng điện từ accu đến tiếp điểm, qua cuộn L1 đến công tắc nguồn báo rẽ sau đó đến những đèn xi nhan ô tô. Khi dòng điện dòng điện chạy qua cuộn L1, ngay thời gian đó trên cuộn L1 sinh ra một từ trường làm tiếp điểm mở .
Hình 2.21: Hoạt động của bộ nháy cơ điện khi công tắc đèn xi nhan ô tô bật.
Khi tiếp điểm mở, tụ điện khởi đầu phóng điện vào cuộn L2 vào L1, đến khi tụ phóng hết điện, từ trường sinh ra trên hai cuộn giữ tiếp điểm mở. Dòng điện phóng ra từ tụ điện và dòng điện từ accu ( chạy qua điện trở ) đến những bóng đèn xi nhan ô tô, nhưng do dòng điện quá nhỏ đèn không sáng .
Hình 2.22: Tiếp điểm mở, tụ điện phóng
Khi tụ phóng hết điện, tiếp điểm lại đóng cho phép dòng điện tiếp tục chạy từ accu qua tiếp điểm đến cuộn L1 rồi đến các đèn xi nhan ô tô làm chúng sáng. Cùng lúc đó dòng điện chạy qua cuộn L2 để nạp cho tụ. Do hướng dòng điện qua L1 và L2 ngược nhau, từ trường sinh ra trên hai cuộn khử lẫn nhau và giữ cho tiếp điểm đóng đến khi tụ nạp đầy. Vì vậy, đèn vẫn sáng. Khi tụ được nạp đầy, dòng điện ngưng chạy trong cuộn L2 và từ trường sinh ra trong L1 lại làm tiếp điểm tiếp tục mở, đèn tắt.
Chu trình trên lạp lại liên tục làm các đèn xi nhan ô tô nháy ở một tần số nhất định.
Hình 2.23: Tiếp điểm đóng (đèn xi nhan ô tô sáng)
Bộ tạo nháy kiểu cơ – bán dẫn của đèn cảnh báo nguy hiểm trên ô tô
Một rơle nhỏ để làm những đèn xi nhan ô tô nháy và một mạch transitor để đóng ngắt rơle theo một tần số định trước được tích hợp thành bộ tạo nháy kiểu bán transitor .
Hình 2.24: Bộ tạo nháy kiểu cơ – bán dẫn
Bộ tạo nháy kiểu bán dẫn của đèn cảnh báo nguy hiểm trên ô tô
Bộ tạo nháy kiểu bán dẫn thường là một mạch giao động đa hài dùng 2 transisitor .
Hoạt động : Trên hình 2. 25 trình diễn hoạt động giải trí bộ tạo nháy .
Khi gạt công tắc nguồn đèn xi nhan ô tô gạt hoặc báo nguy, điện thế dương được cung ứng cho mạch, nhờ sự phóng nạp của những tụ điện, những transistor T1 và T2 sẽ lần lượt đóng mở theo chu kỳ luân hồi. Khi T2 dẫn làm T3 dẫn theo được cho phép dòng điện đi qua cuộn dây relay hút tiếp điểm K đóng làm đèn sáng .
Nếu bất kể một bóng đèn xi nhan ô tô nào bị cháy tải tính năng lên bộ nháy giảm xuống dưới giá trị tiêu chuẩn làm cho thời hạn phóng nạp tụ nhanh hơn thông thường. Vì vậy, tần số nháy của đèn xi nhan ô tô cũng như đèn trên tableau trở nên nhanh hơn báo cho tài xế biết một hay nhiều bóng đèn đã bị cháy .
Hình 2.25: Sơ đồ mạch điện đèn xi nhan ô tô, báo nguy và bộ tạo nháy bán dẫn
Một số mạch báo rẽ của đèn xi nhan khác
Mạch báo rẽ dùng IC 555
Mạch định thời 555 hoàn toàn có thể được dùng làm mạch tạo xung vuông theo thông số kỹ thuật mạch cơ bản cho trong hình 2. 27. Trong mạch này ngõ vào kích khởi chân 2 ( Trigger ) được ngắn mạch với chân 6 ( chân điện áp ngưỡng Thes hold ) và điện trở định thời R2 được nối giữa chân 6 với chân 7 ( chân phóng điện Discharge ) .
Trên hình 2.26, ngay khi cung cấp điện lần đầu cho mạch này, điện áp trên tụ C bằng 0V nên mạch ở trạng thái ban đầu như sau: R = 0, S = 1, Q -bù của R-S Flipflop ở logic 0, transistor ngưng dẫn và ngõ ra chân 3 của IC 555 có mức điện áp cao. Tụ C bắt đầu nạp điện theo hàm mũ qua điện trở R1 qua diode D cho đến khi diện áp trên C tăng đến giá trị 2/3 VCC (lúc điện áp trên tụ C tăng quá 1/3 VCC, mạch so sánh dưới đổi trạng thái và ta có R = S = 0 nên R-S flipflop vẫn giữa nguyên trạng thái cũ và ngõ ra chân 3 cũng vậy). Ở thời điểm này mạch so sánh trên đổi trạng thái nên R = 1 (S = 0), R-S flipflop đổi trạng thái nghĩa là Q -bù ở logic 1 phân cực transistor dẫn bảo hoà và ngõ ra chân 3 chuyển trạng thái xuống mức điện áp thấp. Tụ C phóng điện qua R2 rồi qua chân 7 (chân Discharge) và transistor cho đến khi điện áp trên tụ giảm xuống còn 1/3 VCC. Ở thời điểm này ngõ ra mạch so sánh dưới chuyển trạng thái nên S = 1 (R = 0) làm cho Q-bù của R-S Flipflop chuyển trạng thái xuống logic 0, ngõ ra chân 3 chuyển trạng thái lên mức cao và transistor ngưng dẫn. Tụ C bắt đầu nạp điện trở lại cho đến 2/3 VCC
qua R1. Quá trình sẽ tiếp tục như đã mô tả, tụ C liên tục nạp điện qua R1 và phóng điện qua R2 nên chân ngõ ra 3 có dạng sóng vuông.
Hình 2.26: Sơ đồ chức năng IC 555
Tần số hoạt động của mạch chủ yếu xác định bởi R2 và tụ C.
T =T1 + T2
Trong đó: T – Chu kỳ
T1 – Thời gian nạp của tụ T1 = (R1 + R2). C. ln2
T2 – Thời gian xả của tụ T2 = R2. C. ln2
Để thuận tiện hơn khi tính toán ta thay R2 bằng cách thay vào một biến trở, như thế tần số ở ngõ ra chân 3 sẽ thay đổi tuỳ theo giá trị đó lớn hay nhỏ.
Hình 2.27: Sơ đồ mạch chớp dùng IC
Sơ đồ mạch thực tiễn của bộ chớp dùng IC555 trên hình 2.27 khác với sơ đồ nguyên tắc tạo xê dịch của IC555 ở chỗ là chân tụ điện được nối mass qua bóng đèn .
Mạch báo rẽ kiểu vi mạch:
Hình 2.28: Sơ đồ bộ chớp của TOYOTA
Khi bật công tắt rẽ ( turn signal ), chân L được nối mass, có dòng nạp qua tụ như sau :
Cực dương ắc quy accu -> W -> C -> R1 -> R2 -> D3 -> L -> đèn -> mass, dòng này phân cực thuận cho T1 làm T1 dẫn, T2 khóa. Khi tụ đã được nạp no, lúc này dòng qua R1, R2 mất. T1, T2 dẫn. Cho dòng lớn qua cuộn dây W làm mặt vít K đóng lại, đèn sáng lên đồng thời T2 mở và tụ C khởi đầu phóng từ dương tụ -> T2 -> mass -> âm tụ làm T1 đóng, T2 mở nhanh. Khi tụ C phóng xong, dòng khởi đầu nạp lại, T1 dẩn T2 khóa, vít mở, đèn tắt ( tần số chớp của đèn 120 lần / phút ) .
Công dụng linh kiện:
D1: Dập xung sức điện độn tự cảm của cuộn dây W, bảo vệ T2
D2: Dập xung âm
D3: Ngăn dòng ngược
D4: Giảm dòng rò
Mạch tín hiệu kiểu điện từ:
Khi bật công tắc rẽ (rẽ sang trái hoặc phải, có dòng từ)
Cực dương ắc quy accu -> SW -> dây điện trở Rf -> K -> W -> L -> đèn -> mass. Lúc này dòng qua bóng đèn phải qua dây điện trở và điện trở phụ nên đèn không sáng, nhưng nó làm dây điện trở nóng lên, chùng ra, làm mặt vít k đóng lại cho dòng lớn qua đèn, làm đèn sáng lên. Lúc này dây điện trở và điện trở phụ bị ngắn mạch nên nó nguội đi co lại, mặt vít K mở, đèn tắt. Tần số đóng ngắt này được số lượng giới hạn trong khoảng chừng 60-120 lần / phút .
Hình 2.29: Sơ đồ rơle báo rẽ kiểu điện từ
Sơ đồ hệ thống chiếu sáng và tín hiệu trên ô tô TOYOTA
Hình 2.30: hệ thống chiếu sáng và tín hiệu trên ô tô TOYOTA COROLLA
Hình 2.31: Sơ đồ hệ thống chiếu sáng và tín hiệu trên ô tô TOYOTA HIACE