Phóng to |
Anh em nhà Wright, người mở đường cho ngành hàng không |
Các đây 100 năm, vào lúc 10h30’ sáng 17-12-1903, Orville Wright đã trở thành phi công đầu tiên trên thế giới với chuyến bay lịch sử kéo dài vỏn vẹn 12 giây, vượt 91,44 mét. Sau 4 năm với nhiều mô hình, từ diều đến máy bay cánh lượn không động cơ, anh em Wright đã mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử hàng không thế giới.
Các đây 100 năm, vào lúc 10 h30 ’ sáng 17-12-1903, Orville Wright đã trở thành phi công đầu tiên trên quốc tế với chuyến bay lịch sử dân tộc lê dài vỏn vẹn 12 giây, vượt 91,44 mét. Sau 4 năm với nhiều quy mô, từ diều đến máy bay cánh lượn không động cơ, đồng đội Wright đã mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử vẻ vang hàng không quốc tế .Hai bạn bè đã mất hơn 2 năm để sản xuất và thử nghiệm thành công xuất sắc chiếc máy bay có động cơ và được tinh chỉnh và điều khiển đầu tiên. Tháng 9-1901, trong buổi chuyện trò trước Thương Hội kỹ sư miền Tây Mỹ tại Chicago, Wilbur Wright cho rằng khó khăn vất vả lớn nhất là “ sự cân đối và kỹ thuật lái cỗ máy sau khi nó thật sự ở trên không trung ” .
Công trình của hai bạn bè khởi đầu từ phác thảo của kỹ sư Đức Otto Lilienthal, người từng thực thi hàng nghìn chuyến bay bằng những quy mô cánh lượn do ông phong cách thiết kế. Rút kinh nghiệm tay nghề từ quy mô của Otto Lilienthal, bạn bè nhà Wright nảy ra ý nghĩ rằng nếu đầu cánh được uốn cong, sự cân đối và tinh chỉnh và điều khiển máy bay hoàn toàn có thể được triển khai .
Tháng 8-1899, anh em Wright hoãn kinh doanh công nghiệp chế tạo xe đạp đang phát triển tại Dayton (Ohio) và bắt đầu chế tạo chiếc diều nhỏ để kiểm tra lý thuyết của mình. Họ mang chiếc diều thí nghiệm đến Kitty Hawk, nơi có sức gió ổn định thổi từ Đại Tây Dương và có nhiều đụn cát to giúp giảm thiểu nguy cơ thương tật khi diều rơi. Thí nghiệm thành công và anh em Wright chế tạo chiếc diều to hơn.
Để hoàn thiện thiết kế cánh, họ thử hơn 60 mẫu và cuối cùng chọn mẫu cánh hẹp và dài. Ngoài ra, họ còn làm thêm cặp đuôi đứng để cân bằng hướng bay. Với mô hình trên, phi công phải nằm sấp và dùng tay giật dây để điều khiển cánh cũng như lái hướng bay.
Để hoàn thành xong phong cách thiết kế cánh, họ thử hơn 60 mẫu và ở đầu cuối chọn mẫu cánh hẹp và dài. Ngoài ra, họ còn làm thêm cặp đuôi đứng để cân đối hướng bay. Với quy mô trên, phi công phải nằm sấp và dùng tay giật dây để điều khiển và tinh chỉnh cánh cũng như lái hướng bay .
Từ máy bay cánh lượn, bạn bè Wright mở màn sản xuất quy mô có động cơ. Hầu hết động cơ thời đó đều quá nặng nên hai người phải nghiên cứu và điều tra động cơ của riêng mình, dùng kim loại tổng hợp nhôm – đồng. Để chọn hình dáng thích hợp cho cánh quạt, họ liên tục chui vào hầm tránh gió tại Kitty Hawk để mày mò với nhiều bản vẽ. Cuối cùng cánh quạt sinh ra, được lắp sau máy bay và quay theo hướng ngược đường bay để chống lại hiệu ứng mômen xoắn .
Với quy mô trên, bạn bè Wright đến Kill Devil Hills vào ngày 17-12-1903, đưa chiếc máy bay có tên Flyer 1 lên đường ray phóng. Sau khi tung đồng xu chọn người lái đầu tiên, Orville leo lên máy bay, khởi động. Thí nghiệm thành công xuất sắc ! Chuyến bay có động cơ được điều khiển và tinh chỉnh đầu tiên trong lịch sử vẻ vang hàng không quốc tế đã được thực thi .
Trong ngày đó, đồng đội Wright thực thi thêm 3 chuyến bay nữa và lần dài nhất lê dài 57 giây, bay xa hơn nửa dặm .
Làm thế nào thế giới biết được tin này? Anh em Wright gửi điện tín, yêu cầu người em là Lorin thông báo cho tờ báo địa phương Dayton Journal. Khi nghe Lorin thuật chuyện, một phóng viên AP trả lời: “57 giây hả? Nếu là 57 phút thì còn có chuyện để mà bàn!”. Dù vậy, chuyến bay cũng xuất hiện trên tờ Dayton Journal, ở mục chuyện vặt đó đây.
Làm thế nào quốc tế biết được tin này ? Anh em Wright gửi điện tín, nhu yếu người em là Lorin thông tin cho tờ báo địa phương Dayton Journal. Khi nghe Lorin thuật chuyện, một phóng viên báo chí AP vấn đáp : “ 57 giây hả ? Nếu là 57 phút thì còn có chuyện để mà bàn ! ”. Dù vậy, chuyến bay cũng Open trên tờ Dayton Journal, ở mục chuyện vặt đó đây .
Trước khi Orville và Wilbur Wright trở lại nhà dự Giáng sinh, gần như là không còn ai chăm sóc đến thí nghiệm của họ nữa. Một nhân chứng tên là Amos Ives Root đã viết lại những gì mình nhìn thấy và bài báo được đăng trên tờ Gleanings in Bee Culture vào ngày 1-1-1905. Tuy nhiên, báo chí truyền thông Mỹ liên tục lạnh nhạt. Đơn giản, người ta không tin. Thậm chí, sau khi nhận được thư của đồng đội Wright, trong ấn bản đề ngày 13-1-1906, tờ Scientific American còn đăng hàng tít Chiếc máy bay Wright và cuộc trình diễn hoang đường .
Không có triển vọng bán được quy mô Flyer tại Mỹ, đồng đội Wright viết thư gửi một loạt cơ quan chính phủ châu Âu và đích thân sang Anh, Pháp, Đức mở cuộc hoạt động. Đến năm 1908, công chúng mới thật sự biết đến kỳ kích của họ. Nói một cách công minh, sự chậm trễ trong việc đánh động sự chăm sóc của công chúng cũng có phần lỗi của đồng đội Wright. Một người quen tên là Octave Chanute từng giục họ được cho phép ông thông tin cho những hãng thông tấn quốc tế, nhưng đồng đội Wright phủ nhận, vì sợ rằng sáng tạo hoàn toàn có thể bị đánh cắp. Thay vì công bố phát minh, hai người tập trung chuyên sâu vào việc xin cấp bản quyền và dồn sức lực lao động liên tục nghiên cứu và điều tra .
Tháng 5-1905, khi chuẩn bị thử nghiệm mô hình máy bay mới tại Huffman Praire gần Dayton (Ohio), anh em Wright mời phóng viên viết khu vực Dayton và Cincinnati nhưng vẫn chưa mời phóng viên ảnh. Thật không may, trong lần thử nghiệm này họ lại thất bại, chỉ “lướt” trong không trung vỏn vẹn 1 giây.
Tháng 2-1906, ấn bản phát hành tại Paris của tờ New York Herald đã chỉ trích hết lời, trong đó có đoạn “Anh em Wright đã thật sự bay hoặc chưa hề bay… Họ là phi công thực thụ hoặc đơn giản là một bọn bốc phét. Bay là chuyện rất khó. Thật dễ dàng khi nói rằng Chúng tôi đã bay”…
Tháng 2-1906, ấn bản phát hành tại Paris của tờ New York Herald đã chỉ trích hết lời, trong đó có đoạn “ Anh em Wright đã thật sự bay hoặc chưa hề bay … Họ là phi công thực thụ hoặc đơn thuần là một bọn bốc phét. Bay là chuyện rất khó. Thật thuận tiện khi nói rằng Chúng tôi đã bay ” …
Cuối cùng ngày 22-5-1906, đồng đội Wright được cấp bằng bản quyền sáng tạo. Đó cũng là năm mà một người Brazil tên là Albertos Santos-Dumont bay được 222 mét. Báo chí Pháp nhiệt liệt hoan hô người này, trong khi phớt lờ nguồn tin rằng đồng đội Wright từng bay được 40 km vào một năm trước đó .
Tháng 10-1907, khi Henri Farman bay được 750 mét, giành giải Archdeacon Cup, báo chí truyền thông càng bỏ quên Orville và Wilbur Wright. Phẫn chí nhưng quyết tâm hơn, bạn bè Wright công bố họ liên tục điều tra và nghiên cứu sản xuất quy mô máy bay mới, đồng thời khởi đầu liên hệ với quân đội Mỹ và một công ty Pháp .
Mùa hè năm 1908, bạn bè Wright thông tin họ chuẩn bị sẵn sàng cho hai cuộc thử nghiệm : một tại Fort Myer gần Wasington DC và một tại Les Hunaudìeres ( Pháp ). Wilbur Wright thực thi cuộc thử nghiệm tại Pháp trước .
Ngày 5-8-1908, trước sự tận mắt chứng kiến của nhiều người, trong đó có cả giới chức Pháp, ông đã lái 9 lần với những vòng lượn rộng và trình diễn kiến thức và kỹ năng điều khiển và tinh chỉnh máy bay. Lần lượn lâu nhất lê dài 8 phút 13 giây. Thành tích của đồng đội Wright lần đầu tiên được nhìn nhận ngoài khoanh vùng phạm vi nước Mỹ .
Tiếp theo cuộc trình diễn của Wilbur tại Pháp, tháng 9 năm đó, Orville Wright triển khai thí nghiệm tại Fort Myer với một loạt chuyến bay thành công xuất sắc. Vài ngày sau, một thảm họa xảy ra. Ngày 17-9-1908, khi cất cánh cùng trung úy Thomas Selfridge, Orville Wright triển khai 3 cú đánh vòng và giật mình máy bay rơi. Orville bị thương nặng, còn Selfridge tử trận. Tuy nhiên, sự cố không làm giảm tiếng tăm của hai nhà sáng tạo. Mùa thu năm 1909, bạn bè Wright đã làm chấn động nước Mỹ khi hàng triệu người tận mắt chứng kiến màn lượn máy bay vòng quanh cảng Thành Phố New York, quanh tượng Nữ thần Tự do và vài ngày sau người ta lại thấy họ lướt trên mặt sông Hudson .
Từ tháng 9-1909 đến cuối năm 1910, họ nhận được hơn 350.000 đôla từ các hợp đồng và tiền bản quyền. Trong năm 1910, kỹ thuật máy bay nói chung đạt nhiều thành tích. Người ta bắt đầu bay được 390 km trong 6 giờ 32 phút, đạt độ cao 2.650 m và động cơ từ 25 mã lực được nâng lên 100 mã lực.
Thập niên 1920, bạn bè Wright tham gia huấn luyện và đào tạo phi công. Như vậy, họ không chỉ là những người phát minh ra quy mô máy bay văn minh, mà cũng là những người thầy dạy lái máy bay đầu tiên .
Ngày 30-5-1912, Wilbur qua đời bởi bệnh thương hàn khi mới 45 tuổi. Người em Orville một mình quản lý công ty Wright. Hàng không mở màn trở thành ngành công nghiệp đầy triển vọng. Đó cũng là lúc Orville dính vào nhiều vụ kiện tương quan đến việc bản quyền của bạn bè ông bị đánh cắp tại châu Âu. Mệt mỏi, Orville từ bỏ vị trí quản trị Công ty Wright. Ngày 30/1/1948, Orville từ trần ở tuổi 77 .
May mắn hơn Wilbur, Orville đã tận mắt chứng kiến phát minh của bạn bè mình được sử dụng trong hai cuộc cuộc chiến tranh quốc tế và cũng nhìn thấy tương lai sáng lạn của máy bay trong ngành hàng không gia dụng .