Bài này viết về ngôn từ của con người theo nghĩa chung. Đối với những cách sử dụng khác, xem Ngôn ngữ ( khuynh hướng )
Ngôn ngữ con người có tính năng sản (productivity, tức là khả năng tạo ra vô số từ mới chỉ dựa trên các yếu tố cơ bản) và tính dịch chuyển (displacement, tức là khả năng nhắc đến thứ nằm ngoài ngữ cảnh hiện tại), đồng thời nó phải dựa trên quy ước xã hội và sự học tập tiếp thu.
Số lượng ngôn từ trên quốc tế xê dịch trong khoảng chừng từ 6.000 – 7.000, nhờ vào vào chỉ tiêu phân biệt giữa ngôn từ và phương ngữ của từng tác giả. [ 2 ] Ngôn ngữ tự nhiên hoàn toàn có thể là khẩu ngữ, thủ ngữ hoặc cả hai ; tuy nhiên, bất kể ngôn từ nào cũng hoàn toàn có thể được mã hóa bằng phương tiện đi lại thứ cấp được đảm nhiệm bởi thính giác, thị giác hoặc xúc giác ; ví dụ như văn bản, biển báo, chữ nổi hoặc huýt sáo. Nói cách khác, ngôn từ của con người độc lập khỏi phương pháp diễn đạt, còn ngôn từ ký hiệu và ngôn từ viết là những phương pháp lưu giữ hoặc mã hóa tiếng nói tự nhiên hoặc cử chỉ của con người .
Khi được sử dụng như một khái niệm chung, ngôn ngữ có thể được hiểu là (1) khả năng nhận thức để tiếp thu và sử dụng các hệ thống giao tiếp phức tạp, hoặc (2) tập hợp các quy tắc tạo nên các hệ thống giao tiếp đó, hoặc (3) tập hợp các ngữ lưu (utterance) có thể được tạo ra từ những quy tắc đó. Tất cả các ngôn ngữ đều phải dựa vào quá trình thiết hiệu (semiosis) để liên hệ dấu hiệu (sign) với một ý nghĩa (meaning) cụ thể. Khẩu ngữ, thủ ngữ và ngôn ngữ xúc giác đều có hệ thống âm vị (phonology) quy định sự kết hợp các biểu tượng (symbol) để tạo thành chuỗi gọi là từ hoặc hình vị; và một hệ thống cú pháp quy định sự kết hợp các từ và hình vị để tạo thành ngữ đoạn (phrase) và ngữ lưu.
Môn khoa học điều tra và nghiên cứu ngôn từ được gọi là ngôn ngữ học. Các xem xét phản biện về ngôn từ ( ví dụ điển hình triết học ngôn từ, mối quan hệ giữa ngôn từ và tư duy điển hình như chứng minh và khẳng định ‘ ngôn từ đại diện thay mặt cho kinh nghiệm tay nghề ‘, v.v ) đã được tranh luận từ thời của những triết gia Gorgias và Plato của Hy Lạp cổ đại. Các nhà tư tưởng sau đó như Rousseau ( 1712 – 1778 ) thì cho rằng ngôn từ bắt nguồn từ xúc cảm, trong khi Immanuel Kant ( 1724 – 1804 ) lại cho rằng ngôn từ có nguồn gốc từ tâm lý luân lý và logic. Các triết gia thế kỷ 20 như Ludwig Wittgenstein ( 1889 – 1951 ) cho rằng triết học chẳng qua chỉ là nghiên cứu và điều tra ngôn từ. Hai học giả quan trọng nhất có công tạo dựng nên ngành ngôn ngữ học tân tiến là Ferdinand de Saussure và Noam Chomsky .
Ngôn ngữ được cho là đã dần dần tách ra từ hệ thống giao tiếp linh trưởng tiền khởi, khi các hominin sơ khai lĩnh hội khả năng hình thành lý thuyết tâm trí (theory of mind) và tính ý hướng (intentonality) chung.[3][4] Sự phát triển các đặc điểm này trùng hợp với sự gia tăng khối lượng não và nhiều nhà ngôn ngữ học coi cấu trúc của ngôn ngữ đã tiến hóa để phục vụ các chức năng giao tiếp và chức năng xã hội cụ thể. Ngôn ngữ được xử lý ở nhiều khu vực trực thuộc não bộ, chủ yếu là vùng Broca và Wernicke. Con người thụ đắc ngôn ngữ thông qua giao tiếp xã hội từ thời thơ ấu; trẻ em thường nói trôi chảy vào khoảng 3 tuổi. Ngôn ngữ và văn hóa phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, bên cạnh công dụng giao tiếp, ngôn ngữ còn có những công dụng xã hội như biểu thị bản sắc nhóm, phân tầng xã hội, giải trí và chải chuốt xã hội (social grooming).
Ngôn ngữ biến đổi và đa dạng hóa theo thời gian; lịch sử diễn tiến của ngôn ngữ có thể được phục nguyên (reconstruction) thông qua phương pháp so sánh lịch sử nhằm tìm ra điểm chung giữa các ngôn ngữ hiện đại và suy luận ra được đặc điểm mà ngôn ngữ tổ tiên chung của chúng đã sở hữu. Một nhóm ngôn ngữ có nguồn gốc từ một tổ tiên chung được gọi là một ngữ hệ; ngược lại, một ngôn ngữ mà chưa được chứng minh có bất kỳ mối quan hệ nào với các ngôn ngữ đồng đại hoặc lịch đại thì được gọi là ngôn ngữ biệt lập. Hiện vẫn có những ngôn ngữ chưa được nghiên cứu phân loại và đôi khi có các ngôn ngữ giả mạo bị báo cáo nhầm hoặc do sự cố tình lừa đảo. Giới học thuật hiện nay nhất trí cho rằng 50-90% ngôn ngữ còn được nói vào đầu thế kỷ 21 có lẽ sẽ “tuyệt chủng” vào năm 2100.[5][6][7]
Trong tiếng Việt, “ngôn ngữ” là phiên âm Hán-Việt của cặp Hán tự 言語 (bính âm Quan thoại chuẩn: yányǔ). Trong giai đoạn tiếng Hán trung cổ, hai chữ này được phát âm là /ŋɨɐn ŋɨʌX/,[chú thích 1] và trong giai đoạn tiếng Hán thượng cổ, 言 và 語 được phục nguyên lần lượt là *ŋan và *ŋaʔ theo nhà ngôn ngữ học Thượng Phương (2003).[8] Schuessler (2007) cho rằng 言 (OC: *ŋan) là danh từ phái sinh của động từ 語 (OC: *ŋaʔ, nghĩa là ‘nói’) vì có kèm hậu tố *-n.[9] Một từ nữa dùng để chỉ ngôn ngữ nói trong tiếng Việt là “tiếng”, bắt nguồn từ “tiếng” của tiếng Việt trung đại (thế kỷ 17)[10] và là một từ mượn có gốc Hán trung cổ, 聲 (MC: ɕiᴇŋ) ‘âm thanh’.
Trong tiếng Anh, “language” ‘ngôn ngữ’ được vay mượn từ language ‘ngôn ngữ’ của tiếng Pháp cổ (âm Pháp cổ là lanˈɡʷadʒə), bắt nguồn từ lingua ‘lưỡi’ của tiếng Latin, chính nó lại bắt nguồn từ *dn̥ǵʰwéh₂s ‘lưỡi, lời nói, ngôn ngữ’ của tiếng Ấn-Âu nguyên thủy.[11]
” Ngôn ngữ ” hoàn toàn có thể dùng để chỉ mật mã, cipher và những thể loại ngôn từ tự tạo, ví dụ như ngôn từ máy tính trong kỹ thuật lập trình. Theo đó, ngôn từ được định nghĩa là mạng lưới hệ thống những tín hiệu nhằm mục đích mục tiêu mã hóa và giải thuật thông tin. Bài viết này tập trung chuyên sâu vào ngôn từ tự nhiên của loài người, được điều tra và nghiên cứu bởi ngành ngôn ngữ học .
“Ngôn ngữ”, trong vai trò là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, có hai nghĩa chính: một khái niệm trừu tượng hoặc một hệ thống ngôn ngữ cụ thể kiểu như “tiếng Việt”. Nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure (ông là người có công định hình nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại) là người đầu tiên phân biệt rõ ràng sự khác biệt đó. Ông sử dụng từ language để chỉ một khái niệm, từ langue để chỉ một ví dụ cụ thể của một hệ thống ngôn ngữ và từ parole để chỉ lối sử dụng lời nói trong một ngôn ngữ cụ thể.[12]
Khi nói về ngôn từ như một khái niệm chung, nhiều định nghĩa hoàn toàn có thể được sử dụng để nhấn mạnh vấn đề những góc nhìn khác nhau của hiện tượng kỳ lạ này. [ 13 ] Mỗi định nghĩa sẽ định hình giải pháp điều tra và nghiên cứu và sự đồng cảm ngôn từ theo những cách riêng, dẫn đến những phe phái kim chỉ nan ngôn từ khác nhau hoặc xung khắc nhau. [ 14 ] Các cuộc tranh luận về thực chất và nguồn gốc ngôn từ đã sống sót từ thời cổ đại. Các nhà triết học Hy Lạp như Gorgias và Plato đã thiếu tín nhiệm về mối quan hệ giữa từ ngữ, khái niệm và trong thực tiễn. Gorgias cho rằng ngôn từ không hề đại diện thay mặt cho trải nghiệm khách quan lẫn thưởng thức con người, và rằng tiếp xúc và chân lý đều bất khả thi. Plato cho rằng ta hoàn toàn có thể tiếp xúc được vì ngôn từ đại diện thay mặt cho những ý tưởng sáng tạo và khái niệm sống sót độc lập khỏi ngôn từ và sống sót trước cả ngôn từ .
Trong những cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người thời kỳ Khai sáng, việc suy đoán về nguồn gốc ngôn ngữ đã trở nên rất thịnh hành. Các nhà tư tưởng như Rousseau và Herder cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ sự biểu đạt cảm xúc theo bản năng, và nó ban đầu gần với âm nhạc và thơ ca hơn là logic và tư duy lý trí. Các nhà triết học duy lý như Kant và Descartes lại có quan điểm ngược lại. Vào khoảng đầu thế kỷ 20, các nhà tư tưởng bắt đầu băn khoăn về vai trò của ngôn ngữ trong việc hình thành trải nghiệm của con người về thế giới – đặt câu hỏi liệu ngôn ngữ có phản ánh đơn giản cấu trúc khách quan của thế giới, hay liệu ngôn ngữ tạo ra những khái niệm mà nó áp đặt lên trải nghiệm về thế giới khách quan của chúng ta. Điều này lại dẫn đến câu hỏi liệu các vấn đề triết học có thực sự trước hết phải là vấn đề ngôn ngữ học hay không. Sự trỗi dậy của quan điểm cho rằng ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và lưu thông các khái niệm, và nghiên cứu triết học về cơ bản là nghiên cứu ngôn ngữ, gắn liền với thứ được gọi là bước ngoặt ngôn ngữ học (linguistic turn) và các nhà triết học như Wittgenstein của triết học thế kỷ 20. Những cuộc tranh luận về ngôn ngữ liên quan đến ý nghĩa và tham chiếu, nhận thức và ý thức vẫn đang rất sôi nổi cho đến ngày nay.
Khả năng tâm lý, cơ quan hay bản năng[sửa|sửa mã nguồn]
Một định nghĩa coi ngôn ngữ chủ yếu là khả năng tâm trí (mental faculty) cho phép con người thực hiện hành vi ngôn ngữ: để học ngôn ngữ, để sản xuất và để hiểu lời nói. Định nghĩa này nhấn mạnh tính phổ quát của ngôn ngữ ở loài người và cơ sở sinh học của khả năng sử dụng ngôn ngữ như là một sự phát triển độc đáo của não người. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng sự tiếp thu ngôn ngữ có tính bẩm sinh ở loài người, khẳng định điều này là hiển nhiên, vì tất cả trẻ em bình thường lớn lên trong một môi trường có tiếp xúc với ngôn ngữ đều có thể tiếp thu ngôn ngữ mà chẳng cần hướng dẫn. Ngôn ngữ thậm chí có thể phát triển một cách tự nhiên trong môi trường con người sống và lớn lên cùng nhau mà không có ngôn ngữ chung; ví dụ, các ngôn ngữ Creole và ngôn ngữ ký hiệu Nicaragua. Quan điểm này bắt nguồn từ thời các triết gia Immanuel Kant và René Descartes; quan điểm này xuất hiện trong các thuyết ngữ pháp phổ quát của Noam Chomsky, và thuyết bẩm sinh cực độ của nhà triết học Mỹ Jerry Fodor. Định nghĩa này thường được sử dụng trong các nghiên cứu ngôn ngữ trong khuôn khổ khoa học nhận thức và ngôn ngữ học thần kinh.[17][18]
Hệ thống hình tượng hình thức[sửa|sửa mã nguồn]
Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống hình thức (formal system) các biểu tượng tuân theo các quy tắc ngữ pháp kết hợp để truyền tải một ý nghĩa. Định nghĩa này nhấn mạnh rằng ngôn ngữ con người có thể được mô tả như một hệ thống kết cấu đóng bao gồm các quy tắc ánh xạ các dấu hiệu cụ thể tới các ý nghĩa cụ thể. Quan điểm cấu trúc này được Ferdinand de Saussure đầu tiên đề xướng,[20] và thuyết cấu trúc (structuralism) của ông đã trở thành nền móng của nhiều phương pháp tiếp cận ngôn ngữ sau đó.[21]
Giới ủng hộ lý thuyết của Saussure về ngôn ngữ chủ trương một cách tiếp cận hình thức để nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ bằng cách xác định các yếu tố cơ bản rồi trình bày các quy tắc kết hợp các yếu tố đó nhằm hình thành các từ và câu hoàn chỉnh. Noam Chomsky, cha đẻ của thuyết ngữ pháp tạo sinh (generative grammar), là người ủng hộ nhiệt tình lý thuyết này. Chomsky định nghĩa ngôn ngữ là sự xây dựng các câu cú có thể được tạo ra bằng ngữ pháp chuyển đổi (transformational grammar). Chomsky cho rằng các quy tắc này là đặc điểm bẩm sinh của tâm trí con người và tạo thành các nguyên lý cơ bản của ngôn ngữ.[23] Khái niệm ngữ pháp chuyển đổi cũng thường xuyên được áp dụng trong ngành logic học, ngôn ngữ học hình thức và ngôn ngữ học máy tính.[24][25]
Công cụ tiếp xúc[sửa|sửa mã nguồn]
Một cuộc hội thoại sử dụng ngôn ngữ ký hiệu Mỹ
Một định nghĩa khác coi ngôn ngữ là một hệ thống giao tiếp cho phép con người trao đổi ngữ lưu lời nói (verbal) hoặc biểu tượng (symbolic). Định nghĩa này nhấn mạnh chức năng xã hội của ngôn ngữ và con người sử dụng nó để bộc lộ bản thân và thao túng các đối tượng trong môi trường. Các lý thuyết chức năng của ngữ pháp giải thích các cấu trúc ngữ pháp theo chức năng giao tiếp của chúng, và cho rằng các cấu trúc ngữ pháp của ngôn ngữ là kết quả của một quá trình thích ứng trong đó ngữ pháp được hiệu chỉnh nhằm phục vụ nhu cầu giao tiếp của người sử dụng.[26][27]
Quan điểm này gắn liền với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong khuôn khổ các ngành ngữ dụng học, ngôn ngữ học nhận thức, ngôn ngữ học tương tác, ngôn ngữ học xã hội và nhân học ngôn ngữ. Các lý thuyết chức năng thường coi ngữ pháp như những hiện tượng động, như những cấu trúc luôn trong quá trình thay đổi khi người nói sử dụng. Quan điểm này đặt trọng tâm nghiên cứu ở ngành loại hình học ngôn ngữ (linguistic typology), tức là phân loại ngôn ngữ theo đặc điểm cấu trúc, do có thể chỉ ra rằng sự ngữ pháp hóa (grammaticalization) có xu hướng đi theo quỹ đạo phụ thuộc một phần vào loại hình học.[25] Trong triết học ngôn ngữ, quan điểm coi ngữ dụng là trung tâm của ngôn ngữ và ý nghĩa thường gắn liền với các tác phẩm của Wittgenstein và các triết gia ngôn ngữ thông thường như J.L. Austin, Paul Grice, John Searle và W.O. Quine.
Các độc lạ của ngôn từ con người[sửa|sửa mã nguồn]
Nhà ngôn ngữ học Charles Hockett đã mô tả nhiều đặc điểm khác biệt của ngôn ngữ con người, mà được ông đặt tên là các đặc điểm thiết kế (design feature),[29] tách biệt ngôn ngữ con người khỏi các hệ thống giao tiếp ở loài vật.
Các hệ thống giao tiếp ở động vật như ong hoặc vượn là các hệ thống đóng bao gồm một số lượng hữu hạn (thường rất hạn chế) các ý tưởng có thể diễn đạt.[30] Ngược lại, ngôn ngữ con người là hệ thống mở và năng sản, tức là nó cho phép con người tạo ra một loạt các ngữ lưu từ một tập hợp hữu hạn các yếu tố và cho phép con người tạo ra các câu từ mới. Điều này khả thi bởi vì ngôn ngữ con người dựa trên một mã kép (dual code), trong đó một số lượng hữu hạn các yếu tố vô nghĩa ban đầu (ví dụ: âm thanh, chữ cái hoặc cử chỉ) có thể được kết hợp để tạo thành vô số đơn vị ý nghĩa lớn hơn (từ và câu).[31] Tuy nhiên, một nghiên cứu đã chứng minh rằng loài chim Pomatostomus ruficeps ở Úc có khả năng sử dụng các yếu tố âm giống nhau nhưng theo cách dàn xếp khác nhau để tạo ra hai âm thanh khác biệt về chức năng.[32] Ngoài ra, loài chim Turdoides bicolor có khả năng tạo ra hai giọng hót khác biệt về chức năng được cấu thành từ cùng một loại âm, chỉ có thể được phân biệt bằng số lượng các yếu tố âm lặp lại.[33]
Một số loài động vật hoang dã đã được chứng tỏ là có năng lực tiếp thu những hình thức tiếp xúc trải qua học tập xã hội : ví dụ như một con tinh tinh lùn tên là Kanzi đã học cách bộc lộ bản thân bằng cách sử dụng một bộ từ vựng tượng trưng ( xem tiếng Yerkes ). Tương tự, nhiều loài chim và cá voi học những tiếng kêu âm hưởng bằng cách bắt chước những thành viên khác trong đàn của chúng. Tuy đúng là một số ít loài vật hoàn toàn có thể tiếp thu số lượng lớn từ và ký hiệu, [ chú thích 2 ] năng lực tiếp thu của chúng vẫn còn kém xa một đứa bé loài người năm 4 tuổi trung bình và chúng vẫn chưa tạo ra bất kể thứ gì tương tự như như ngữ pháp phức tạp ở ngôn từ con người. [ 35 ]
Ngôn ngữ con người khác biệt với các hệ thống giao tiếp động vật ở chỗ: nó sở hữu các đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa, chẳng hạn danh từ và động từ, thì hiện tại và thì quá khứ, được sử dụng để truyền đạt những ý nghĩa cực kỳ phức tạp.[35] Ngôn ngữ con người còn độc đáo với tính đệ quy: ví dụ, một cụm danh từ có thể chứa một cụm danh từ khác (kiểu như “[môi [con tinh tinh]]”) hoặc một mệnh đề có thể chứa một mệnh đề khác (kiểu như “[Tôi thấy [con chó đang chạy]]”).[4] Ngôn ngữ con người là hệ thống giao tiếp tự nhiên duy nhất được biết mà khả năng thích ứng có thể coi là độc lập về phương thức (modality independent). Điều này tức là ngôn ngữ có thể được sử dụng không chỉ để giao tiếp thông qua một kênh hoặc phương tiện duy nhất. Ví dụ, ngôn ngữ nói sử dụng phương thức thính giác, trong khi ngôn ngữ ký hiệu và chữ viết sử dụng phương thức trực quan, còn chữ nổi sử dụng phương thức xúc giác.[36]
Các giả thuyết về nguồn gốc ngôn từ khác nhau ở những giả định cơ bản về ngôn từ. Một số giả thuyết dựa trên ý tưởng sáng tạo rằng ngôn từ phức tạp đến mức nó không thể nào chỉ đơn thuần Open từ hư không ở dạng hoàn hảo, chắc rằng nó đã tiến hóa từ những mạng lưới hệ thống tiền ngôn từ ở tổ tiên vượn nhân. Những giả thuyết thế này được gọi là những giả thuyết mang tính liên tục. Quan điểm trái lại cho rằng ngôn từ là một đặc thù riêng của con người và không hề so sánh với bất kỳ thứ gì ở những loài phi-người và do đó, nó đã phải Open bất thần trong quy trình tiến hóa từ tiền – hominid sang loài người sơ khai. Những triết lý dạng này được gọi là những giả thuyết mang tính gián đoạn. Ngoài ra, những giả thuyết dựa trên quan điểm di truyền do Noam Chomsky tiên phong coi ngôn từ như một năng lực bẩm sinh được mã hóa hầu hết trong di truyền ; còn những giả thuyết theo kim chỉ nan tính năng coi ngôn từ như một mạng lưới hệ thống văn hóa truyền thống đa phần, được lĩnh hội trải qua tương tác xã hội. [ 38 ]Các kim chỉ nan liên tục được đa phần học giả ủng hộ nhưng sự không tương đồng về quy trình tăng trưởng. Các học giả coi ngôn từ là năng lực bẩm sinh, ví dụ điển hình nhà tâm lý học Steven Pinker, coi tiền thân của ngôn từ là nhận thức ở động vật hoang dã, [ 18 ] còn 1 số ít khác coi ngôn từ là công cụ tiếp xúc được học trải qua xã hội, ví dụ điển hình nhà tâm lý học Michael Tomasello, cho rằng ngôn từ là công cụ tiến hóa từ tiếp xúc động vật hoang dã ở linh trưởng : tiếp xúc bằng cử chỉ hoặc tiếng kêu để tương hỗ và hợp tác. [ 39 ] Các quy mô dựa trên tính liên tục khác cho rằng ngôn từ tiến hóa từ âm nhạc và rất được ưng ý bởi Rousseau, Herder, Humboldt và Charles Darwin. Một người đề xướng điển hình nổi bật của quan điểm này là nhà khảo cổ học Steven Mithen. Nhà ngôn ngữ học Mỹ Stephen Anderson khẳng định chắc chắn rằng tuổi của ngôn từ nói rơi vào khoảng chừng 60.000 đến 100.000 năm [ 41 ] và rằng :
Các nhà nghiên cứu về nguồn gốc tiến hóa của ngôn từ thường thấy hài hòa và hợp lý khi cho rằng ngôn từ chỉ được phát minh duy nhất một lần và toàn bộ những ngôn từ nói văn minh theo một cách nào đó đều có quan hệ với nhau, ngay cả khi mối quan hệ đó không còn Phục hồi được nữa … vì những hạn chế của những giải pháp hiện thời nhằm mục đích tái tạo chúng. [ 42 ]
Bởi lẽ ngôn từ đã Open từ thời tiền sử, trước khi có bất kể ghi chép thành văn nào, sự tăng trưởng khởi đầu của nó không để lại bất kể dấu tích lịch sử vẻ vang nào và giới khoa học tin rằng hiện giờ ta không hề quan sát bất kể quy trình nào hoàn toàn có thể mô phỏng lại sự khởi thủy đó. Các học giả theo thuyết liên tục chủ trương tìm kiếm ở động vật hoang dã những đặc thù hoàn toàn có thể xem là tương tự như với ngôn từ ở loài người sơ khai. Các nhà khảo cổ thì có năng lực kiểm định và tìm kiếm những dấu vết sinh học thích nghi cho việc sử dụng ngôn từ ở con người, hoặc tìm kiếm những dạng hành vi hình tượng tiền ngôn từ. Một số những tín hiệu hóa thạch con người bộc lộ năng lực ngôn từ là : kích cỡ não so với khối lượng khung hình, sự tiến hóa của thanh quản có năng lực tạo ra âm thanh tiên tiến và một số ít công cụ cùng những đồ tạo tác .
Một quan điểm truyền thống trong giới khảo cổ là các australopithecine tiền nhân tựu trung có hệ thống giao tiếp không khác mấy so với các loài vượn lớn. Tuy nhiên, một nghiên cứu về loài Ardipithecus ramidus năm 2017 đã thách thức quan điểm trên.[44] Một số học giả cho rằng sự phát triển của các hệ thống tiền ngôn ngữ (proto-language)[chú thích 3] bắt đầu sớm nhất với Homo habilis (2,3 triệu năm trước) trong khi nhiều học giả khác cho rằng sự tiến hóa của giao tiếp biểu tượng nguyên thủy bắt đầu với Homo erectus (1,8 triệu năm trước) hoặc Homo heidelbergensis (0,6 triệu năm trước), và sự tiến hóa của ngôn ngữ chính thống bắt đầu với Homo sapiens hiện đại về mặt giải phẫu trong cuộc cách mạng Đồ đá cũ Thượng chưa đầy 100.000 năm trước.
Chomsky là học giả điển hình nổi bật đề xướng kim chỉ nan gián đoạn của sự tiến hóa ngôn từ. [ 38 ] Ông phản hồi về những học giả chăm sóc đến thực chất ngôn từ, ” tranh luận về sự tiến hóa của năng lượng ngôn từ là lạc đề. ” Chomsky đề xuất kiến nghị rằng có lẽ rằng ” 1 số ít đột biến ngẫu nhiên đã xảy ra [ … ] và chúng đã tái tổ chức triển khai bộ não, cấy ghép một cơ quan ngôn từ vào bộ não phần lớn linh trưởng. ” Mặc dù Chomsky khuyên rằng không nên coi giả thuyết này theo nghĩa đen, ông vẫn chứng minh và khẳng định ” nó có lẽ rằng gần với thực tiễn hơn nhiều câu truyện cổ tích khác về những quy trình tiến hóa, gồm có cả ngôn từ. ”
Ngôn ngữ học đã tăng trưởng thành một ngành khoa học kể từ khi những miêu tả ngữ pháp tiên phong của những ngôn từ đơn cử ở Ấn Độ hơn 2000 năm trước, sau sự tăng trưởng của hệ chữ Brahmi. Ngôn ngữ học tân tiến là một ngành khoa học điều tra và nghiên cứu tổng thể những góc nhìn của ngôn từ, xem xét nó từ toàn bộ những quan điểm triết lý đã được nêu ở trên. [ 51 ]
Nghiên cứu học thuật về ngôn từ được thực thi trên nhiều nghành nghề dịch vụ chuyên ngành và từ nhiều góc nhìn triết lý khác nhau, toàn bộ những thứ đó đều cung ứng những chiêu thức tiếp cận tân tiến so với ngôn ngữ học. Ví dụ, ngôn ngữ học diễn đạt phẫu thuật ngữ pháp của một ngôn từ đơn lẻ ; ngôn ngữ học kim chỉ nan tăng trưởng những kim chỉ nan, khái niệm ngôn từ và xác lập thực chất ngôn từ dựa trên tài liệu từ nhiều ngôn từ khác nhau ; ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu và điều tra phương pháp sử dụng ngôn từ trong toàn cảnh xã hội, để rồi vận dụng ngược sang để nghiên cứu và điều tra những công dụng xã hội của ngôn từ và miêu tả ngữ pháp ; ngôn ngữ học thần kinh nghiên cứu và điều tra phương pháp ngôn từ được giải quyết và xử lý trong bộ não và kiểm định những kim chỉ nan ; ngôn ngữ học đo lường và thống kê được kiến thiết xây dựng trên nền tảng ngôn ngữ học triết lý và diễn đạt để tạo nên những quy mô thống kê giám sát của ngôn từ nhằm mục đích giải quyết và xử lý ngôn từ tự nhiên hoặc thử nghiệm những giả thuyết ngôn ngữ học ; và ngôn ngữ học lịch sử vẻ vang lần theo dấu vết lịch sử dân tộc của từng ngôn từ dựa theo những miêu tả ngữ pháp, từ vựng và tái tạo lại quan hệ ngôn từ trải qua giải pháp so sánh lịch sử dân tộc. [ 52 ]
Thời kỳ đầu[sửa|sửa mã nguồn]
Ferdinand de Saussure phát triển hướng tiếp cận cấu trúc luận đối với nghiên cứu ngôn ngữ.
Nhà ngữ pháp học Ấn Độ thế kỷ thứ 5 TCN Pāṇini, nổi tiếng với khu công trình liệt kê 3.959 quy tắc hình thái tiếng Phạn, thường được coi là người khởi đầu ngành điều tra và nghiên cứu ngữ pháp chính thống. Tuy nhiên, người Sumer đã nghiên cứu và điều tra sự độc lạ giữa ngữ pháp tiếng Sumer và tiếng Akkad từ rất lâu trước đó rồi ( vào khoảng chừng năm 1900 TCN ). Các truyền thống cuội nguồn miêu tả ngữ pháp liên tục tăng trưởng ở toàn bộ những nền văn hóa truyền thống cổ đại tiếp thu chữ viết. [ 53 ]Vào thế kỷ 17, những nhà ngữ pháp Port-Royal của Pháp có ý tưởng sáng tạo cho rằng ngữ pháp của mọi ngôn từ là sự phản ánh những điều cơ bản phổ quát của ý nghĩ và chính vì thế, ngữ pháp tất phải phổ quát. Vào thế kỷ 18, nhà bác ngữ và chuyên viên về Ấn Độ cổ đại người Anh tên là William Jones lần tiên phong vận dụng chiêu thức so sánh lịch sử dân tộc để nghiên cứu và điều tra ngôn từ và lưu lại cho sự khởi đầu của ngành ngôn ngữ học so sánh lịch sử dân tộc. [ 54 ] Wilhelm von Humboldt sau đó lan rộng ra sáng tạo độc đáo điều tra và nghiên cứu ngôn từ lịch sử vẻ vang từ những ngôn từ Ấn-Âu sang những nhóm ngôn từ khác. Đầu thế kỷ 20, Ferdinand de Saussure đề xuất kiến nghị khái niệm ngôn từ như một mạng lưới hệ thống tĩnh gồm những đơn vị chức năng link với nhau, được xác lập trải qua sự trái chiều giữa chúng. [ 20 ]
Saussure đã đặt nền móng cho ngành ngôn ngữ học hiện đại với sự phân biệt giữa phân tích đồng đại (synchrony) và lịch đại (diachrony) trong nghiên cứu ngôn ngữ. Ông cũng đưa ra một số khía cạnh khái niệm cơ bản của phân tích ngôn ngữ, cho đến nay vẫn là đại cương trong nhiều lý thuyết ngôn ngữ học, chẳng hạn sự phân biệt ngữ đoạn-mẫu hình, sự phân biệt langue-parole tách ngôn ngữ thành hai phần là hệ thống trừu tượng (langue) và ngôn ngữ cụ thể hiện thân của hệ thống này (parole).[55]
Ngôn ngữ học tân tiến[sửa|sửa mã nguồn]
Noam Chomsky là nhà ngôn ngữ học có ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 20.
Vào những năm 1960, Noam Chomsky xây dựng lý thuyết tạo sinh của ngôn ngữ, cho rằng hình thức cơ bản nhất của ngôn ngữ là một tập hợp các quy tắc cú pháp phổ quát ở toàn bộ loài người và đóng vai trò là cơ sở ngữ pháp của tất cả ngôn ngữ loài người. Bộ quy tắc này được ông gọi là Ngữ pháp Phổ quát (Universal Grammar); theo Chomsky, mục tiêu chính của ngôn ngữ học là tìm ra thứ ngữ pháp này. Vì vậy, ông cho rằng ngữ pháp của từng ngôn ngữ riêng lẻ chỉ có tầm quan trọng nhất định do chúng cho phép ta suy ra các quy tắc cơ bản phổ quát mà từ đó tạo ra sự biến đổi ngôn ngữ có thể quan sát được ngày nay.[56]
Đối lập với những triết lý hình thức của phe phái tạo sinh, những triết lý công dụng của ngôn từ cho rằng ngôn từ về cơ bản là một công cụ, thế nên cấu trúc của nó được nghiên cứu và phân tích và hiểu rõ nhất khi ta đi nghiên cữu tính năng của nó. Các triết lý hình thức về ngữ pháp tìm cách xác lập những yếu tố khác nhau của ngôn từ và diễn đạt sự liên hệ giữa chúng như thể mạng lưới hệ thống những quy tắc hoặc những thao tác hình thức, trong khi những triết lý công dụng tìm cách xác lập những công dụng của ngôn từ và sau đó liên hệ chúng với những yếu tố ngôn từ thực thi tính năng đó. [ 25 ] [ chú thích 4 ] Khuôn khổ ngôn ngữ học nhận thức lý giải ngôn từ dưới dạng những khái niệm ( nhiều lúc phổ quát, và nhiều lúc đơn cử cho một ngôn từ riêng biệt ) ẩn dưới cái hình thức. Ngôn ngữ học nhận thức chăm sóc đa phần đến cách trí óc tạo ra ý nghĩa trải qua ngôn từ. [ 58 ]
Kiến trúc sinh lý và thần kinh của ngôn từ và lời nói[sửa|sửa mã nguồn]
Nói là phương pháp mặc định để diễn đạt ngôn từ ở tổng thể những nền văn hóa truyền thống. Việc tạo ra ngôn từ nói nhờ vào vào năng lượng điều khiển và tinh chỉnh môi, lưỡi và những thành phần khác của cỗ máy thanh âm rất phức tạp ; dựa vào năng lực giải thuật âm thanh của giọng nói, và dựa vào cỗ máy thần kinh thiết yếu để tiếp thu và sản xuất ngôn từ. [ 59 ] Ngành nghiên cứu cơ sở di truyền của ngôn từ con người vẫn còn rất non trẻ : gen duy nhất hiện được biết có tương quan đến sự sản xuất ngôn từ ở người là FOXP2, mất đoạn gen này sẽ gây gián đoạn tính năng ngôn từ ở người. [ 60 ]
Bộ não là TT điều phối mọi hoạt động giải trí ngôn từ ; nó trấn áp cả việc sản xuất nhận thức ngôn từ, ý nghĩa và cơ chế tạo ra lời nói. Tuy nhiên, kiến thức của tất cả chúng ta về những cơ sở thần kinh tương quan đến ngôn từ vẫn còn rất hạn chế mặc cho những văn minh đáng kể trong kỹ thuật hình ảnh văn minh. Ngành ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu và điều tra những góc nhìn thần kinh của ngôn từ được gọi là ngôn ngữ học thần kinh. [ 61 ]Công tác bắt đầu của ngành ngôn ngữ học thần kinh là điều tra và nghiên cứu ngôn từ ở những người bị tổn thương não, để xem xét những tổn thương ở những khu vực đó ảnh hưởng tác động thế nào đến ngôn từ và lời nói. Các nhà khoa học thần kinh vào thế kỷ 19 phát hiện ra 2 khu vực của não bộ tương quan mật thiết đến quy trình giải quyết và xử lý ngôn từ của con người. Khu vực tiên phong là vùng Wernicke, nằm ở phần sau của hồi thái dương trên thuộc bán cầu đại não lợi thế. Những người bị tổn thương vùng não này bộc lộ chứng thất ngôn tiếp thu, tức là thực trạng suy giảm trầm trọng năng lực hiểu ngôn từ, nhưng lời nói vẫn giữ nhịp điệu tự nhiên và cấu trúc câu tương đối thông thường. Khu vực thứ hai là vùng Broca, nằm ở phần sau của hồi trán dưới của bán cầu não lợi thế. Những người bị tổn thương khu vực này biểu lộ chứng thất ngôn miêu tả, tức là họ biết điều mình muốn nói nhưng không tài nào nói ra được. [ 62 ] Các đối tượng người tiêu dùng đôi lúc hiểu được cuộc trò chuyện nhưng không hề nói trôi chảy, thường lặp từ của người khác, có biểu lộ nói không đúng ngôn từ và không có năng lực sử dụng thông tin cú pháp để xác lập ý nghĩa của câu. Cả hai loại thất ngôn trên tác động ảnh hưởng đến ngôn từ ký hiệu y hệt như ngôn từ nói miệng. Chứng thất ngôn diễn đạt khiến cho đối tượng người tiêu dùng ra ký hiệu chậm hơn và sai ngữ pháp, còn chứng thất ngôn tiếp thu khiến đối tượng người tiêu dùng tuy ra hiệu trôi chảy, nhưng thường lan man khó hiểu và thường không hiểu được ý của đối phương. Những điều trên cho thấy rằng hai vùng này đặc trưng cho năng lực sử dụng ngôn từ, nhưng không tương quan gì đến năng lực tạo ra giọng nói. [ 63 ] [ 64 ]Với những tân tiến công nghệ tiên tiến vào cuối thế kỷ 20, những nhà ngôn ngữ học thần kinh đã và đang vận dụng những kỹ thuật không xâm nhập như chụp cộng hưởng từ công dụng ( fMRI ) và điện sinh lý để nghiên cứu và điều tra quy trình giải quyết và xử lý ngôn từ ở những người khỏe mạnh. [ 61 ]
Giải phẫu lời nói[sửa|sửa mã nguồn]
Đường dẫn âm của con người .[ i, u, ɑ ] trong tiếng Anh Mỹ biểu thị formant f1 và f2Thanh phổ của các nguyên âmtrong tiếng Anh Mỹ biểu thị formantvà
Quét MRI thời hạn thực một người nói tiếng Quan thoại Trung Quốc .Ngôn ngữ nói dựa vào năng lực vật lý của con người để tạo ra âm thanh, tức là một kiểu sóng dọc truyền trong không khí ở tần số rung động trống tai. Khả năng này nhờ vào vào sinh lý của cơ quan tạo lời nói ở con người. Những cơ quan này gồm có phổi, thanh quản, cổ họng, miệng và mũi. Bằng cách điều phối những bộ phận thuộc cỗ máy phát âm, luồng khí được kiểm soát và điều chỉnh để tạo ra những âm thanh giọng nói khác nhau. [ 65 ]
Âm thanh của lời nói có thể được phân tích thành sự kết hợp của các yếu tố đoạn tính và siêu đoạn tính (segmental and suprasegmental). Các phần tử phân đoạn là những phần tử nối tiếp nhau theo trình tự, thường được biểu thị bằng các chữ cái riêng biệt trong bảng chữ cái, chẳng hạn chữ Latinh. Trong lời nói tự do, không có ranh giới rõ ràng giữa phân đoạn này và phân đoạn tiếp, và thường không có bất kỳ khoảng tạm dừng âm thanh nào giữa chúng. Do đó, các phân đoạn được phân biệt bằng các âm riêng biệt là kết quả của các cách phát âm khác nhau (có thể là nguyên âm hoặc phụ âm). Hiện tượng siêu phân đoạn bao gồm các yếu tố như trọng âm (stress), kiểu tạo âm (phonation type), âm sắc (timbre), điệu tính (prosody) hoặc ngữ điệu (intonation), tất cả đều có thể có ảnh hưởng trên nhiều phân đoạn.[66]
Các phân đoạn phụ âm và nguyên âm phối hợp với nhau để tạo thành âm tiết, sau đó tích hợp với nhau để tạo thành ngữ lưu ; điều mà hoàn toàn có thể được phân biệt bằng khoảng trống giữa hai lần hít vào. Về mặt âm học, những phân đoạn khác nhau đặc trưng bởi những cấu trúc formant khác nhau, được biểu lộ trong phổ sóng ghi lại âm thanh. Formant chính là những đỉnh biên độ trong phổ tần số của một âm thanh đơn cử. [ 66 ] [ 67 ]
Nguyên âm là những âm thanh không có ma sát nghe được, gây ra bởi sự thu hẹp hoặc tắc nghẽn một số chặng của đường dẫn âm trên. Chúng khác nhau về chất âm (quality) tùy theo độ mở của môi và vị trí của lưỡi trong khoang miệng.[66] Nguyên âm được gọi là đóng (close) khi môi tương đối khép, chẳng hạn âm [i] (tiếng Việt ký âm là “i” hoặc “y”); được gọi là mở (open) khi môi tương đối mở, chẳng hạn nguyên âm [a] (tiếng Việt ký âm là “a”). Nếu lưỡi nằm về phía sau miệng, chất âm sẽ thay đổi, tạo ra các nguyên âm như [u] (tiếng Việt ký âm là “u”). Chất âm cũng thay đổi tùy thuộc vào độ làm tròn (roundedness) và không làm tròn (unroundedness) của môi, ví dụ sự khác biệt giữa [i] (nguyên âm trước không làm tròn) và [y] (nguyên âm trước làm tròn trong tiếng Đức “ü” ).[68]
Phụ âm là những âm bị ma sát nghe được hoặc bị cản trở tại một số chặng của đường dẫn âm trên. Các phụ âm thay đổi tùy theo vị trí cấu âm (place of articulation), tức là vị trí luồng khí bị cản trở trong đường dẫn âm, thường là ở môi, răng, kẽ kề nướu răng, ngạc cứng, ngạc mềm, lưỡi gà hoặc thanh môn. Mỗi vị trí cấu âm sẽ tạo ra một tập hợp các phụ âm khác nhau, được phân biệt rõ ràng hơn bởi phương pháp cấu âm (manner of articulation) hoặc loại ma sát, kể cả khi đóng hoàn toàn (trong trường hợp đó phụ âm được gọi là âm tắc hoặc dừng), hoặc các mức khẩu độ khác nhau tạo ra âm xát và âm lướt. Phụ âm cũng có thể là hữu thanh hoặc vô thanh (voiced-unvoiced), tùy thuộc vào độ rung động của dây thanh trong quá trình phát âm.
Một số âm cần sự giải phóng luồng khí bằng khoang mũi nên được gọi là âm mũi hoặc âm mũi hóa (nasalized). Một số âm được tạo ra bởi chuyển động lưỡi trong miệng, như các âm l thì được gọi là âm bên (lateral) vì luồng khí chạy dọc hai bên lưỡi, và như các âm r thì được gọi là âm r-tính (rhotic).[67]
Con người hoàn toàn có thể tạo ra hàng trăm âm thanh riêng không liên quan gì đến nhau : một số ít âm Open rất tiếp tục trong những ngôn từ trên quốc tế, còn 1 số ít âm thanh lại thông dụng hơn trong một số ít ngữ hệ, khu vực ngôn từ nhất định hoặc thậm chí còn chỉ Open ở một ngôn từ đơn cử. [ 69 ]
Phương thức diễn đạt[sửa|sửa mã nguồn]
Ngôn ngữ con người rất linh hoạt trong cách thức truyền tải.[1] Hai phương thức giao tiếp được coi là cơ bản: bằng miệng (lời nói và ra hiệu bằng miệng) và bằng tay (ra hiệu bằng tay và cử chỉ).[chú thích 5] Thông thường, ngôn ngữ bằng miệng đi kèm với cử chỉ và ngôn ngữ ký hiệu đi kèm với mấp máy miệng. Ngoài ra, một số cộng đồng ngôn ngữ sử dụng cả hai phương thức để truyền tải ý nghĩa từ vựng hoặc ngữ pháp, bổ trợ lẫn nhau. Việc sử dụng ngôn ngữ theo hai phương thức như vậy đặc biệt phổ biến trong các thể loại như kể chuyện (ví dụ thủ ngữ Anh-điêng đồng bằng và thủ ngữ thổ dân Úc đi đôi với ngôn ngữ miệng), đôi khi cũng xảy ra trong các cuộc trò chuyện thông thường. Ví dụ: nhiều ngôn ngữ Úc có một tập hợp phong phú các hậu tố cách ngữ pháp (case) cung cấp thông tin chi tiết về công cụ được sử dụng để thực hiện một hành động. Nhiều ngôn ngữ khác thiếu độ chính xác ngữ pháp như vậy ở ngôn ngữ nói, nhưng được bổ sung bằng cử chỉ để truyền đạt thông tin đó. Ví dụ, trong tiếng Iwaidja, câu nói ‘anh ta đi săn cá với ngọn đuốc’ được nói đơn giản là “anh ấy-săn cá đuốc”, nhưng từ ‘đuốc’ được đi kèm với một cử chỉ biểu thị rằng nó đã được cầm. Một ví dụ nữa, ngôn ngữ nghi lễ Damin có vốn từ vựng truyền miệng chỉ vỏn vẹn vài trăm từ, mỗi từ đều rất chung chung về nghĩa, nhưng được bổ sung bằng cử chỉ để có độ chính xác cao hơn (ví dụ: từ duy nhất chỉ cá là l*i, sẽ đi kèm một cử chỉ để xác định loài cá).[70]
Các phương pháp ngôn từ thứ cấp gồm có chữ viết ( gồm có chữ nổi ), tín hiệu ( bằng ngôn từ được mã hóa bằng tay thủ công ), huýt sáo và đánh trống. Các phương pháp ngôn từ bậc ba – ví dụ điển hình semaphore, mã Morse và bảng vần âm chính tả – truyền tải phương pháp viết thứ cấp theo một phương tiện đi lại khác. Đối với một số ít ngôn từ chết còn được duy trì cho mục tiêu nghi lễ hoặc phụng vụ, chữ viết mới là phương pháp diễn đạt chính, còn nói chỉ là phương pháp thứ yếu .
Nếu được coi như một hệ thống giao tiếp tượng trưng theo truyền thống, ngôn ngữ được xem như bao gồm ba phần: dấu hiệu (sign), ý nghĩa (meaning) và mã (code) cầu nối giữa dấu hiệu và ý nghĩa. Khoa học nghiên cứu quá trình thiết hiệu (phương thức các dấu hiệu và ý nghĩa được liên kết, sử dụng và giải thích) được gọi là ngành ký hiệu học. Dấu hiệu có thể bao gồm âm thanh, cử chỉ, chữ cái hoặc biểu tượng, tùy thuộc vào ngôn ngữ được nói, ra hiệu hay viết và chúng có thể được kết hợp thành các dấu hiệu phức tạp hơn, chẳng hạn từ và cụm từ. Khi được sử dụng để giao tiếp, một dấu hiệu sẽ được mã hóa và truyền đi bởi người gửi (sender) thông qua một kênh (channel) đến người nhận (receiver) phải giải mã nó.[71]
Bản khắc tiếng Tamil cổ đại tại Thanjavur
Một số đặc tính tách biệt ngôn ngữ con người khỏi các hệ thống giao tiếp khác, đó là: tính võ đoán (arbitrariness) của dấu hiệu ngôn ngữ, tức là ta không thể lường trước mối liên kết giữa dấu hiệu và ý nghĩa; tính sóng đôi (duality) của hệ thống ngôn ngữ, tức là những cấu trúc ngôn ngữ lớn hơn được xây dựng từ sự kết hợp các yếu tố nhỏ hơn, ví dụ: âm thanh xây dựng từ ngữ, rồi từ ngữ xây dựng ngữ đoạn; tính phân lập (discreteness) của các yếu tố ngôn ngữ, tức là các yếu tố cấu thành dấu hiệu ngôn ngữ là các đơn vị rời rạc, ví dụ: âm thanh và từ ngữ, có thể được phân biệt và tái sắp xếp theo các kiểu mẫu khác nhau; và tính năng sản (productivity) của hệ thống ngôn ngữ, tức là trên lý thuyết, một tổ hợp ngôn từ vô hạn có thể được sáng tạo từ hữu hạn yếu tố ngôn ngữ.[71]
Các quy tắc mà những tín hiệu tuân theo để tích hợp và tạo thành từ ngữ / ngữ đoạn được gọi là cú pháp hoặc ngữ pháp. Ý nghĩa ẩn sau của từng tín hiệu, hình vị, từ ngữ, ngữ đoạn và văn bản được gọi là ngữ nghĩa. [ 72 ] De Saussure là nhà ngôn ngữ học tiên phong cho giải pháp phân loại ngôn từ thành những mạng lưới hệ thống ký hiệu và ý nghĩa riêng không liên quan gì đến nhau như vậy, mà lúc bấy giờ được vận dụng trong hầu hết những ngành ngôn ngữ học. [ 73 ]
Các ngôn từ miêu tả ý nghĩa trải qua sự liên hệ dạng ký hiệu ( sign form ) với một ý nghĩa hoặc nội dung. Dạng tín hiệu phải là thứ hoàn toàn có thể nhận ra được, ví dụ điển hình âm thanh, hình ảnh hoặc cử chỉ, sau đó được liên hệ đến một ý nghĩa đơn cử dựa theo quy ước xã hội. Vì mối quan hệ dạng ký hiệu-ý nghĩa chịu ràng buộc vào quy ước xã hội, những tín hiệu ngôn từ hoàn toàn có thể coi là tùy ý, tức là quy ước đó được thiết lập về mặt xã hội và lịch sử vẻ vang, chứ không phải về mặt tự nhiên giữa một dạng tín hiệu đơn cử và ý nghĩa của nó. [ 20 ]
Như vậy, ngôn ngữ phải có vốn dấu hiệu liên quan đến ý nghĩa cụ thể. Ví dụ, ký hiệu tiếng Việt “chó” làm ta liên tưởng đến một thành viên của loài Canis familris. Một mảng các dấu hiệu tùy ý kết nối với các ý nghĩa cụ thể được gọi là từ vựng (lexicon), còn từng ký hiệu đơn lẻ kết nối với từng ý nghĩa một được gọi là từ vị (lexeme). Chưa chắc mọi ý nghĩa trong một ngôn ngữ đều được thể hiện bằng các từ đơn. Thông thường, các khái niệm ngữ nghĩa được gắn với hình thái hoặc cú pháp của ngôn ngữ dưới dạng các đặc điểm ngữ pháp (ví dụ: đuôi -s chỉ số nhiều ở tiếng Anh, v.v).[74]
Mọi ngôn ngữ đều có một cấu trúc ngữ nghĩa gọi là vị ngữ, đảm nhận chức năng xác định thuộc tính, trạng thái hoặc hành động. Ngữ nghĩa học có thể được định nghĩa là ngành khoa học nghiên cứu về phương thức người nói hoặc người thông dịch gán giá trị chân lý cho các phát biểu; do đó, ý nghĩa có thể được hiểu là quá trình mà một vị ngữ phát biểu đúng hoặc sai về một thực thể, ví dụ: “[x [là y]]” hay “[x [làm y]]”. Gần đây, mô hình ngữ nghĩa học này đã được bổ sung với nhiều mô hình ý nghĩa năng động hơn, kết hợp thêm kiến thức về ngữ cảnh chung, trong đó một dấu hiệu được diễn giải tạo ra ý nghĩa. Những mô hình kiểu vậy được nghiên cứu trong lĩnh vực ngữ dụng học.[74]
Âm thanh và ký hiệu[sửa|sửa mã nguồn]
Tùy thuộc vào phương pháp miêu tả, cấu trúc ngôn từ hoàn toàn có thể dựa trên mạng lưới hệ thống âm thanh ( lời nói ), cử chỉ ( ngôn từ ký hiệu ), đồ họa hoặc hình tượng xúc giác. Cách thức ngôn từ sử dụng âm thanh hoặc hình tượng để thiết kế xây dựng ý nghĩa được điều tra và nghiên cứu trong ngành âm vị học. [ 75 ]
Âm thanh thuộc một phần của hệ thống ngôn ngữ được gọi là âm vị (phoneme).[76] Âm vị là loại âm thanh trừu tượng, được định nghĩa là đơn vị nhỏ nhất trong ngôn ngữ có thể dùng để phân biệt ý nghĩa của một cặp tối thiểu (minimal pair). Ví dụ trong tiếng Việt, tương [tɨəŋ˧˧] và thương [tʰɨəŋ˧˧] tạo thành một cặp tối thiểu, trong đó sự phân biệt /t/ và /th/ tạo ra hai từ khác hẳn nhau về nghĩa; tương tự trong tiếng Anh, bat [bæt] ‘dơi’ và pat [pʰæt] ‘vỗ’ tạo thành cặp tối thiểu do sự phân biệt /b/ và /p/. Tuy nhiên, mỗi ngôn ngữ tương phản âm thanh theo những cách khác nhau. Nếu như một ngôn ngữ không phân biệt giữa phụ âm hữu thanh và vô thanh, thì âm [p] và [b] (nếu xuất hiện) có thể được coi là một âm vị duy nhất và hai từ sẽ có cùng nghĩa. Giống tiếng Hàn và tiếng Hindi, tiếng Anh không phân biệt ngữ âm giữa phụ âm bật hơi và không bật hơi: /p/ trong spin [spɪn] và /p/ trong pin [pʰɪn] được coi là hai cách phát âm khác nhau của cùng một âm vị (hai âm này do vậy sẽ được gọi là tha âm vị (allophone)), trái lại trong tiếng Quan Thoại thì lại phân biệt giữa [pʰá] ‘cúi’ và [pá] ‘tám’ (dấu sắc của á ở đây tượng trưng cho thanh điệu cao).[77]
Mọi ngôn ngữ nói đều có âm vị thuộc hai loại cơ bản là nguyên âm và phụ âm, có thể kết hợp lại thành âm tiết (syllable).[66] Bên cạnh phụ âm và nguyên âm, một số ngôn ngữ sử dụng nhiều đặc điểm khác để truyền đạt và phân biệt ý nghĩa, ví dụ như trọng âm (stress), cao độ (pitch), thời lượng (duration) và thanh điệu (tone). Bởi vì những hiện tượng này hoạt động bên ngoài mức độ đoạn tính đơn lẻ, chúng được gọi là siêu phân đoạn.[78] Một số ngôn ngữ có rất ít âm vị, chẳng hạn tiếng Rotokas và tiếng Pirahã sở hữu lần lượt 11 và 10 âm vị, trong khi một số lại có rất nhiều âm vị, chẳng hạn tiếng Taa sở hữu tận 141 âm vị.[77] Trong nghiên cứu ngôn ngữ ký hiệu, thứ tương đương với âm vị được gọi là hiệu vị (chereme), tức là các yếu tố cơ bản của cử chỉ chẳng hạn hình dạng, hướng, vị trí và chuyển động của tay, tương ứng với phương pháp cấu âm trong khẩu ngữ.[79][80][81]
Hệ thống chữ viết là hệ thống sử dụng các ký hiệu trực quan để đại diện cho ngôn ngữ nói. Bảng chữ cái Latinh (và những bảng chữ cái dựa theo hoặc bắt nguồn từ nó) ban đầu được tạo ra nhằm ký âm đơn lẻ, vì vậy những cộng đồng ngôn ngữ sử dụng bảng Latinh phải ghép các chữ cái lại để tạo thành một từ hoàn chỉnh. Trong các hệ chữ âm tiết (syllabic script), chẳng hạn hệ chữ Inuktitut, mỗi ký hiệu đại diện cho toàn bộ một âm tiết. Trong các hệ chữ tượng hình (logographic script), mỗi dấu hiệu đại diện cho toàn bộ một từ[82] và hầu như không gợi ý cách phát âm của từ đó.
Bởi những ngôn từ đều có số lượng từ vựng rất lớn, không một hệ chữ tượng hình thuần túy nào sống sót. Ngôn ngữ viết mô phỏng lại sự tiếp nối của những âm thanh và lời nói bằng cách sắp xếp những ký hiệu theo một khuôn mẫu, tuân theo một chiều viết nhất định. Chiều viết của một hệ chữ trọn vẹn tùy thuộc theo quy ước. Một số hệ chữ viết theo chiều ngang ( từ trái sang phải giống hệ Latinh hoặc từ phải sang trái giống hệ Ả Rập ), còn một số ít hệ khác viết theo chiều dọc, ví dụ như từ trên xuống dưới giống hệ chữ Hán truyền thống cuội nguồn. Một số hệ viết theo những hướng ngược nhau xen kẽ những dòng, và 1 số ít hệ, ví dụ điển hình hệ Maya cổ, hoàn toàn có thể được viết theo cả hai hướng và sử dụng những ký hiệu đặc biệt quan trọng để hướng dẫn người đọc hướng viết. [ 83 ]Các nhà ngôn ngữ học đã tăng trưởng bảng vần âm phiên âm quốc tế ( IPA ) để đại diện thay mặt cho toàn bộ những đơn vị chức năng âm thanh rời rạc góp thêm phần tạo nên ý nghĩa trong toàn bộ những ngôn từ nói miệng của con người. [ 84 ]
Ngữ pháp là bộ quy tắc của một ngôn từ đơn cử lao lý sự kết ghép những những hình vị lại để tạo thành một ngữ lưu. Nếu hình vị được tự do chuyển dời trong một ngữ lưu, chúng được gọi là từ ; còn nếu bị ràng buộc với những từ hoặc hình vị khác thì gọi là phụ tố. Các quy tắc cấu trúc bên trong của từ được gọi là hình thái còn quy tắc cấu trúc bên trong của những cụm từ và câu thì gọi là cú pháp. [ 85 ]
Phạm trù ngữ pháp[sửa|sửa mã nguồn]
Ngữ pháp có thể được mô tả là một hệ thống các phạm trù (category) và một tập hợp các quy tắc kết hợp các phạm trù đó để tạo thành các khía cạnh ý nghĩa khác nhau.[86] Từng ngôn ngữ sẽ có một kiểu mã hóa ý nghĩa theo phạm trù hoặc từ vị riêng. Tuy nhiên, vẫn có một số đặc điểm nhất quán đến mức gần như phổ quát ở mọi ngôn ngữ.[87]
Các nhà ngôn ngữ học chia các thành phần trong câu nói thành các lớp từ theo chức năng và vị trí của chúng so với các phần khác của một câu. Ví dụ, tất cả các ngôn ngữ đều phân biệt giữa nhóm từ biểu thị nguyên mẫu sự vật-khái niệm và nhóm từ biểu thị nguyên mẫu hành động-sự kiện. Nhóm từ chỉ sự vật-khái niệm, bao gồm các từ tiếng Việt như “chó” và “nhạc”, được gọi là danh từ. Nhóm từ chỉ hành động-sự kiện, bao gồm “nghĩ” và “hát”, được gọi là động từ. Một nhóm từ phổ biến nữa là tính từ, mô tả đặc tính hoặc phẩm chất của các danh từ, chẳng hạn “chua” hoặc “lớn”. Lớp từ “mở” nếu ta luôn có thể thêm từ mới vào lớp đó, nhưng “đóng” nếu chỉ có một số lượng cố định từ ngữ ở lớp đó. Trong tiếng Anh, lớp đại từ là lớp đóng còn lớp tính từ là lớp mở, do vô số tính từ có thể phái sinh từ động từ (ví dụ: “saddened”) hoặc danh từ (ví dụ: thêm hậu tố -like vào sau một danh từ có thể tạo ra các tính từ, như trong “noun-like” ‘giống danh từ’). Trong các ngôn ngữ khác như tiếng Hàn, điều này trái lại, số lượng đại từ là bất định nhưng số lượng tính từ lại cố định.[88]
Mỗi từ loại đảm nhận những chức năng khác nhau của ngữ pháp. Ví dụ, động từ cấu thành vị ngữ, còn danh từ cấu thành tham tố (argument) của vị ngữ; ví dụ trong câu “Sally runs”, vị ngữ sẽ là “runs” vì nó chỉ trạng thái cụ thể của tham tố “Sally”. Một số động từ như “curse” có thể liên kết với 2 tham tố, ví dụ: “Sally cursed John”. Một vị ngữ chỉ có thể nhận một tham tố duy nhất thì gọi là nội động từ (intransitive verb), còn nếu có thể nhận hai tham tố thì gọi là ngoại động từ (transitive verb).[89]
Ngoài ra, ngôn từ còn có rất nhiều từ loại, ví dụ điển hình : liên từ để nối những mệnh đề, mạo từ để ghi lại tính xác lập của danh từ, thán từ để thể hiện cảm hứng, biểu ý từ ( ideophone ) để gợi lên ý tưởng sáng tạo bằng âm thanh, giới từ để xác lập vị trí của sự vật trong khoảng trống, loại từ để phân loại danh từ theo hình dáng hoặc phẩm chất của sự vật, v.v.
Trong ngôn ngữ học, việc điều tra và nghiên cứu cấu trúc bên trong của những từ phức và quy trình mà những từ ngữ hình thành được gọi là hình thái học. Trong hầu hết những ngôn từ, từ phức hoàn toàn có thể được thiết kế xây dựng từ nhiều hình vị. Ví dụ, từ ” unexpected ” trong tiếng Anh hoàn toàn có thể được nghiên cứu và phân tích thành ba hình vị là ” un – “, ” expect ” và ” – ed “. [ 90 ]
Hình vị có khả năng đứng độc lập gọi là căn tố (root), còn nếu phải đi kèm với các hình vị khác thì gọi là phụ tố (affix). Phụ tố có thể được phân loại dựa theo vị trí của chúng so với căn tố: tiền tố (prefix), hậu tố (postfix) và trung tố (infix). Phụ tố có vai trò thay nghĩa hoặc bổ nghĩa cho căn tố. Trong một số ngôn ngữ, từ ngữ có thể biến âm để biểu thị một ý nghĩa khác; ví dụ trong tiếng Anh, từ “run” ở thì quá khứ là “ran”. Hiện tượng biến âm đó được gọi là ablaut. Ngoài ra, hình thái học phân biệt giữa hai khái niệm biến tố (thay nghĩa hoặc bổ nghĩa một căn tố) và phái sinh (tạo ra từ mới dựa trên một căn tố hiện có). Trong tiếng Anh, động từ “sing” có dạng biến tố thì quá khứ là “sung” và dạng phái sinh kèm hậu tố chỉ nghề nghiệp “-er” là “singer”.[91]
Dựa vào hình thái-cú pháp, ngôn từ hoàn toàn có thể được phân thành 4 loại sau đây :
- Ngôn ngữ đơn lập (isolating language): Là ngôn ngữ mà một từ chỉ tương đương với một khía cạnh ý nghĩa rời rạc. Ví dụ trong một số ngôn ngữ như tiếng Trung và tiếng Việt, quá trình hình thái (morphological process) không tồn tại và tất cả thông tin ngữ pháp được mã hóa cú pháp theo các từ đơn lập.
- Ngôn ngữ hòa kết (fusional language): Là ngôn ngữ mà một hình vị có thể mang nhiều khía cạnh ý nghĩa riêng biệt, không thể phân tích thành các đơn vị nhỏ hơn. Điển hình cho ngôn ngữ dạng này là các ngôn ngữ Ấn-Âu; ví dụ, trong tiếng Latin, từ bonus ‘tốt’ bao gồm chính tố bon- ‘tốt’ và hậu tố -us biểu thị giống đực, số ít và danh cách (đuôi -us đứng riêng không có nghĩa).
- Ngôn ngữ chắp dính (agglutinative language): Là ngôn ngữ xây dựng từ bằng cách xâu chuỗi các hình vị lại với nhau; khác với kiểu hòa kết, mỗi hình vị vẫn có ý nghĩa rời rạc. Ví dụ điển hình của ngôn ngữ dạng này là tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, có các từ kiểu như evlerinizden nghĩa là “từ nhà của bạn”, có thể phân tích thành ev-ler-iniz-den và giải nghĩa lần lượt là “nhà-số nhiều-của bạn-từ”.
- Ngôn ngữ hỗn nhập (polysynthetic language): Là ngôn ngữ có tính tổng hợp rất cao, thường có khả năng diễn đạt toàn bộ một câu chỉ với một từ duy nhất. Ví dụ trong tiếng Ba Tư, từ phức nafahmidamesh có nghĩa là tôi đã không hiểu nó, bao gồm các hình vị na-fahm-id-am-esh, với nghĩa lần lượt là “phủ định-hiểu-thì quá khứ-tôi-nó”. Một ví dụ khác phức tạp hơn, từ tuntussuqatarniksatengqiggtuq trong tiếng Yupik có nghĩa là “Anh ấy chưa nói lại rằng anh ấy sẽ đi săn tuần lộc”, bao gồm các hình vị tuntu-ssur-qatar-ni-ksaite-ngqiggte-uq với nghĩa lần lượt là “tuần lộc-săn-thì tương lai-nói-phủ định-lần nữa-ngôi ba.số ít.lối trình bày“. Ngoại trừ tuntu (“tuần lộc”), các hình vị còn lại không thể đứng độc lập.[92]
Nhiều hình thái ngôn ngữ thể hiện tính tham chiếu chéo các từ trong một câu, gọi là sự phù ứng (agreement). Ví dụ trong nhiều ngôn ngữ Ấn-Âu, các tính từ phải tham chiếu chéo với danh từ mà chúng bổ nghĩa về lượng, cách và giống. Chính vì vậy, từ bonus trong tiếng Latinh phải dùng sau một danh từ giống đực, số ít và ở dạng cách. Trong nhiều ngôn ngữ hỗn nhập, các động từ phải tham chiếu chéo với chủ thể và đối tượng. Ví dụ trong cụm từ tiếng Basque ikusi nauzu, nghĩa là “bạn đã thấy tôi”, động từ phụ trợ thì quá khứ n-au-zu (tương tự như “do” trong tiếng Anh) phù ứng với chủ ngữ (bạn) qua tiền tố n- và phù ứng với đối tượng (tôi) qua hậu tố -zu. Giải nghĩa từng hình vị của từ này sẽ là “thấy bạn-làm thì quá khứ-tôi”.[93]
Ngoài từ loại, một câu có thể được phân tích thành các phần mang chức năng khác nhau: “The cat” là chủ ngữ, “on the mat” là cụm chỉ vị trí, và “sat” là lõi của vị ngữ.
Một cách truyền đạt ý nghĩa khác của ngôn ngữ là thông qua thứ tự các từ trong một câu, đó chính là cú pháp. Các quy tắc cú pháp của một ngôn ngữ cho ta biết tại sao “I love you” là câu có nghĩa, nhưng “*love you I” thì không.[chú thích 6] Các quy tắc cú pháp xác định trật tự từ và sự ràng buộc cấu trúc câu, và làm thế nào những ràng buộc đó góp phần tạo nên ý nghĩa.[95] Ví dụ, trong tiếng Anh, hai câu: “the slaves were cursing the master” [Đám nô lệ chửi (thì quá khứ tiếp diễn) tên chủ nô] và “the master was cursing the slaves” [Tên chủ nô chửi (thì quá khứ tiếp diễn) đám nô lệ] có nghĩa khác nhau bởi vì chủ ngữ là danh từ đứng trước động từ, còn tân ngữ là danh từ đứng sau động từ. Trái lại trong tiếng Latin, cả “Dominus servos vituperabat” và “Servos vituperabat dominus” đều có nghĩa là [Chủ nhân khiển trách (thì quá khứ tiếp diễn) đám nô lệ] bởi vì từ servos ‘nô lệ’ đang ở dạng đối cách (accusative case, biểu thị vị ngữ) và dominus ‘chủ nhân’ đang ở dạng danh cách (nominative case, biểu thị chủ ngữ).[96]
Tiếng Latin sử dụng hình thái để phân biệt giữa chủ thể và đối tượng, còn tiếng Anh sử dụng trật tự từ. Một ví dụ khác về tầm ảnh hưởng của quy tắc cú pháp làm thay đổi ý nghĩa của câu là quy tắc đảo ngược trật tự từ trong câu hỏi, xuất hiện ở nhiều ngôn ngữ. Quy tắc này giải thích tại sao trong tiếng Anh, câu “John is talking to Lucy” khi chuyển thành câu hỏi phải là “Who is John talking to?” (1), chứ không phải “John is talking to who?” (2). Tất nhiên, câu (2) đôi khi được sử dụng để thay đổi sắc thái câu hỏi, nhấn mạnh sự nghi vấn vào “who?”. Ngoài ra, cú pháp còn bao gồm các quy tắc kết hợp các ngữ đoạn ở những vị trí khác nhau lại để tạo thành một câu hoàn chỉnh. Câu có thể được coi là một cấu trúc dạng cây, tách ra thành các đơn vị ngữ đoạn nhỏ hơn ở những cấp khác nhau. Hình bên trên minh họa cú pháp đã phân tích của câu “the cat sat on the mat” tiếng Anh, bao gồm danh ngữ (noun phrase), động từ, và giới ngữ (prepositional phrase). Đoạn giới ngữ có thể được phân tích tiếp thành một giới từ và một danh ngữ, và danh ngữ đó lại có thể phân tích tiếp thành một mạo từ và một danh từ.[98]
Lý do câu hoàn toàn có thể được nghiên cứu và phân tích thành những ngữ đoạn là chính do mỗi ngữ đoạn trọn vẹn hoàn toàn có thể vận động và di chuyển trong câu như một thành phần duy nhất nếu như một thao tác cú pháp nào đó được thực thi. ” The cat ” và ” on the mat ” là hai ngữ đoạn / cụm từ, vì chúng được coi là những đơn vị chức năng riêng không liên quan gì đến nhau nếu người nói / người viết quyết định hành động đưa giới ngữ lên đầu câu để nhấn mạnh vấn đề vị trí : ” [ And ] on the mat, the cat sat ”. [ 98 ] Các khuôn khổ hoặc phe phái hình thức và công dụng khác nhau sẽ có kim chỉ nan miêu tả cú pháp câu riêng, do vậy sự nghiên cứu và phân tích cấu trúc câu còn dựa theo từng phe phái kim chỉ nan ngôn từ. [ 25 ]
Loại hình và phổ niệm[sửa|sửa mã nguồn]
Ngôn ngữ có thể được phân loại theo các kiểu hình ngữ pháp. Các ngôn ngữ dù có thuộc các ngữ hệ khác nhau vẫn thường có các đặc điểm chung, có xu hướng tương quan với nhau.[99] Ví dụ, ngôn ngữ có thể được phân loại dựa trên thứ tự từ cơ bản của chúng, tức là thứ tự tương đối của động từ với các thành phần của một câu thông thường. Trong tiếng Anh, thứ tự từ cơ bản là SVO (chủ–động–tân): “Snake bit the man” (rắn cắn người), nhưng nếu nói một câu tương tự trong thổ ngữ Gamilaraay Úc thì phải theo trật tự SOV (chủ-tân-động): d̪uyugu n̪ama d̪ayn yiːy (rắn người cắn).[100] Kiểu thứ tự từ được coi là một tham số (parameter) loại hình vì kiểu trật tự từ cơ bản còn tương ứng với các tham số cú pháp khác, chẳng hạn thứ tự tương đối của danh từ và tính từ, hoặc sự sử dụng tiền giới từ (preposition) hoặc hậu giới từ (postpositions). Những mối tương quan kiểu vậy được gọi là sự phổ niệm tất suy hay phổ niệm ngầm (implicational universal).[101] Hầu hết, không phải tất cả, các ngôn ngữ có thứ tự câu SOV đều sử dụng hậu giới từ thay vì tiền giới từ, và tính từ thì thường đứng trước danh từ.[102]
Mọi ngôn ngữ đều có các cấu trúc Chủ ngữ, Động từ và Tân ngữ, nhưng chúng lại khác nhau ở cách phân loại các mối quan hệ giữa tác thể và hành động. Tiếng Anh thuộc loại hình thái chủ cách-đối cách (nominative-accusative): trong các mệnh đề vị từ ngoại động tiếng Anh, chủ ngữ của câu nội động “I run” lẫn câu ngoại động “I love you” được coi là như nhau, được thể hiện bằng cùng một đại từ I “tôi”. Một số ngôn ngữ khác thuộc loại hình thái khiển cách (ergative), ví dụ tiếng Gamilaraay, lại phân biệt giữa Tác thể (Agent) và Bị thể (Patient). Trong các ngôn ngữ khiển cách, tham tố đơn lẻ trong một câu nội động, chẳng hạn “I run”, lại giống hệt như bị thể trong một câu ngoại động, tức là “me run” = “I run”. Chỉ trong các câu ngoại động thì từ tương đương với “I” mới được sử dụng.[100] Do vậy, các vai trò ngữ nghĩa có thể ánh xạ lên các mối quan hệ ngữ pháp theo những cách khác nhau, gộp một chủ thể nội động hoặc với Tác thể (kiểu đối cách) hoặc Bị thể (kiểu khiển cách) hoặc thậm chí làm cho ba vai trò khác hẳn nhau, thì được gọi là kiểu ba bên.[103]
Các đặc thù giống nhau giữa những ngôn từ thuộc cùng một mô hình hoàn toàn có thể phát sinh trọn vẹn độc lập. Sự đồng đẳng đó hoàn toàn có thể là do những quy luật phổ quát chi phối cấu trúc của ngôn từ tự nhiên, tức là ” phổ niệm ngôn từ “, hoặc chúng hoàn toàn có thể là tác dụng của sự quy tụ ngôn từ sinh ra bởi những yếu tố tiếp xúc lặp đi tái diễn mà con người sử dụng ngôn từ để xử lý. [ 26 ]
Ngôn ngữ trong toàn cảnh xã hội[sửa|sửa mã nguồn]
Bức tường tình yêu ở Montmartre, Paris: “Em yêu anh/Anh yêu em” trong 250 thứ tiếng, tác phẩm của nhà thư pháp Fédéric Baron và họa sĩ Claire Kito (2000)
Mặc dù con người có khả năng học bất kỳ ngôn ngữ nào, nhưng họ chỉ có thể làm được điều đó nếu họ lớn lên trong môi trường mà ngôn ngữ đó tồn tại và được người khác sử dụng. Chính vì vậy, ngôn ngữ phải phụ thuộc vào một cộng đồng ngôn ngữ (speech community), trong đó, trẻ em tiếp thu ngôn ngữ từ người lớn và bạn bè xung quanh chúng, rồi chúng tiếp tục truyền ngôn ngữ cho con cái chúng sau này. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp và giải quyết rất nhiều nhiệm vụ xã hội. Các khía cạnh của việc ngữ dụng đã thích nghi cho mục đích này.[26] Do cách thức truyền ngôn ngữ giữa các thế hệ và trong một cộng đồng, ngôn ngữ luôn biến đổi và đa dạng hóa thành các ngôn ngữ mới, hoặc hội tụ lại do tiếp xúc ngôn ngữ. Các quá trình này có phần giống với tiến hóa sinh học, trong đó quá trình phái sinh với sự biến đổi dẫn đến sự hình thành cây phát sinh chủng loại.[104]
Tuy nhiên, ngôn từ khác với sinh vật ở chỗ : ngôn từ thuận tiện đảm nhiệm yếu tố từ những ngôn từ khác trải qua quy trình khuếch tán khi những hội đồng ngôn từ độc lạ tiếp xúc với nhau. Con người nhiều lúc nói nhiều hơn một ngôn từ, tiếp thu ngôn từ mẹ đẻ hoặc nhiều ngôn từ khi còn nhỏ, hoặc học ngôn từ mới khi lớn lên. Vì sự tiếp xúc ngôn từ ngày càng tăng trong quốc tế toàn thế giới hóa, nhiều ngôn từ nhỏ đang lâm nguy bởi người nói chuyển sang dùng ngôn từ khác mà cho họ thời cơ tham gia vào hội đồng ngôn từ lớn hơn và có tác động ảnh hưởng hơn. [ 6 ]
Ngữ dụng học[sửa|sửa mã nguồn]
Từ ngữ và ký hiệu thường có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh xã hội mà chúng được sử dụng. Đơn cử là quá trình trực chỉ (deixis), mô tả cách thức mà một số từ ngữ nhất định đề cập đến các thực thể thông qua mối quan hệ giữa chúng với một điểm cụ thể trong thời gian và không gian. Ví dụ một số từ đảm nhận chức năng như vậy là: “tôi” (chỉ người đang nói), “bây giờ” (chỉ thời điểm nói), và “đây” (chỉ vị trí nói). Trực chỉ là một phần quan trọng trong cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ để chỉ ra các thực thể của thế giới xung quanh.[105] Ý nghĩa của ký hiệu cũng có thể bị thay đổi theo thời gian, bởi sự biến hóa không ngừng của các quy ước ra hiệu. Ngành ngôn ngữ học nghiên cứu sự biến đổi ý nghĩa trong bối cảnh xã hội được gọi là ngữ dụng học. Ngành này chủ yếu quan tâm đến các mô hình của việc sử dụng ngôn ngữ và sự tạo nên ý nghĩa của những mô hình đó. Trong mọi ngôn ngữ, các biểu thức (expression) không chỉ có chức năng truyền đạt thông tin mà còn có cả chức năng hành động (action). Một số hành động nhất định chỉ có thể được thực hiện thông qua ngôn ngữ, điều mà vẫn có thể tác động một cách hữu hình lên thực thể, chẳng hạn “đặt tên” (hành động tạo ra từ riêng để chỉ một số thực thể) hoặc “tuyên bố hai người là vợ là chồng” (hành động tạo ra một khế ước xã hội về hôn nhân). Những hành động bằng ngôn ngữ nêu trên được các nhà ngữ dụng học gọi là ngôn hành (speech act), và chúng cũng có thể được thực hiện thông qua văn viết hoặc thủ ngữ.[106]
Hình thức biểu đạt ngôn ngữ thường không tương ứng với ý nghĩa mà nó thực sự có trong bối cảnh xã hội. Ví dụ, tại bàn ăn, một người hỏi bằng tiếng Anh: “Can you reach the salt?”, tức là ở đây, ý của anh ta không phải là muốn biết chiều dài sải tay của người kia, mà là đề nghị người kia một cách lịch sự rằng lấy hộ anh ấy lọ muối. Do vậy, ý nghĩa của câu từ còn phải phụ thuộc vào ngữ cảnh; khái niệm này được các nhà ngữ dụng học gọi là hàm ngôn hội thoại (conversational implicature). Những quy tắc xã hội của việc sử dụng ngôn ngữ chỉ phù hợp trong một số tình huống nhất định và cách thức phát biểu được hiểu thế nào trong mối quan hệ với bối cảnh khác nhau giữa từng cộng đồng văn hóa, và việc học các quy tắc đó đóng vai trò rất lớn trong năng lực giao tiếp ngôn ngữ của một người.[107]
Thụ đắc ngôn từ[sửa|sửa mã nguồn]
Tất cả con người khỏe mạnh, phát triển bình thường đều có khả năng học cách sử dụng ngôn ngữ. Trẻ em tiếp thu bất kỳ ngôn ngữ nào được sử dụng đáng kể xung quanh chúng, bất kể là thủ ngữ hay khẩu ngữ.[108] Quá trình tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em được gọi là thụ đắc ngôn ngữ đầu tiên (first-language acquisition), vì không giống như nhiều quá trình tiếp thu khác, sự “thụ đắc” không cần phải được giảng dạy mà diễn ra thụ động. Trong cuốn The Descent of Man, nhà tự nhiên học Charles Darwin gọi quá trình này là “an instinctive tendency to acquire an art” (một xu hướng bản năng nhằm tiếp thu nghệ thuật).[18]
Một buổi học tại Học viện Kituwah, nơi sử dụng cả tiếng Anh lẫn tiếng Cherokee trong giảng dạy
Thụ đắc ngôn ngữ đầu tiên diễn ra theo một trình tự khá đều đặn, mặc dù có sự khác biệt về thời điểm của từng giai đoạn cụ thể ở trẻ sơ sinh phát triển bình thường. Các nghiên cứu được công bố vào năm 2013 chỉ ra rằng thai nhi có khả năng tiếp thu ngôn ngữ ở một mức độ nào đó.[109][110] Ngay từ khi sinh ra, trẻ sơ sinh ưu tiên phản ứng với lời nói con người hơn các âm thanh khác. Khoảng 1 tháng tuổi, trẻ đã có khả năng phân biệt giữa các âm tố khác nhau. Khoảng 6 tháng tuổi, trẻ sẽ bắt đầu bập bẹ, tạo ra các âm tố hoặc ký hiệu của ngôn ngữ sử dụng xung quanh chúng. Khoảng từ 12-18 tháng tuổi, trẻ hình thành khái niệm từ; vốn từ vựng trung bình của một đứa trẻ lúc 18 tháng tuổi rơi vào khoảng 50 từ. Thuật ngữ để chỉ những ngữ lưu đầu tiên của trẻ là holophrasis (nghĩa đen là “toàn bộ câu”), tức là những ngữ lưu chỉ sử dụng một từ để truyền đạt một số ý tưởng. Vài tháng sau khi đứa trẻ bắt đầu tạo ra từ, chúng sẽ nói các ngữ lưu hai từ và trong vòng vài tháng nữa sẽ bắt đầu tạo ra các câu điện tín (telegraphic speech), tức những câu đơn giản về mặt ngữ pháp so với câu nói của người lớn nhưng vẫn có kết cấu cú pháp thông thường. Khoảng từ 3-5 tuổi, khả năng nói hoặc ra hiệu của trẻ được tinh chỉnh đến mức giống với ngôn ngữ của người lớn.[111][112]
Tiếp thu ngôn từ thứ hai và thứ ba / bốn / v.v hoàn toàn có thể diễn ra ở mọi lứa tuổi, trải qua sự ” trình diện ” trong đời sống hàng ngày hoặc ôn luyện tại những khóa học. Trẻ em học ngôn từ thứ hai có nhiều năng lực đạt được sự trôi chảy như người bản xứ không như người lớn, nhưng tựu trung, rất hiếm khi người nói ngôn từ thứ hai có nói trọn vẹn giống như người bản ngữ. Một sự độc lạ quan trọng giữa tiếp thu ngôn từ tiên phong và tiếp thu ngôn từ bổ trợ là quy trình tiếp thu ngôn từ bổ trợ bị ảnh hưởng tác động bởi những ngôn từ mà người học đã biết. [ 113 ]
Tác phẩm Cuộc hội thoại của họa sĩ Arnold Lakhovsky (k. 1935)
Ngôn ngữ còn được hiểu là tập hợp những quy tắc nói đơn cử của một hội đồng đơn cử, và là một phần của nền văn hóa truyền thống bao trùm hội đồng nói chúng. Các ngôn từ không chỉ khác nhau ở mặt phát âm, từ vựng và ngữ pháp ; mà còn khác ” văn hóa truyền thống nói “. Con người sử dụng ngôn từ như một phương tiện đi lại báo hiệu truyền thống nhóm, cũng như nhấn mạnh vấn đề sự độc lạ với những nhóm khác. Ngay cả giữa những người nói chung một ngôn từ, vẫn có sự độc lạ trong lối nói và mỗi lối nói đó báo hiệu sự link với một nhóm đơn cử thường trực nền văn hóa truyền thống lớn hơn. Các nhà ngôn ngữ học, nhân học, và đặc biệt quan trọng là những nhà xã hội học, dân tộc bản địa học và nhân học ngôn từ chuyên nghiên cứu và điều tra những lối nói khác nhau giữa những hội đồng ngôn từ. [ 114 ]
Các nhà ngôn ngữ học sử dụng thuật ngữ “biến thể” (varieties) để chỉ lối cách khác nhau khi nói cùng một ngôn ngữ. Thuật ngữ này bao hàm các phương ngữ (dialect) được xác định theo địa lý hoặc văn hóa xã hội, cũng như các biệt ngữ nghề nghiệp (jargon) hoặc phong cách (style) của các nền văn hóa phụ. Các nhà nhân học ngôn ngữ và các nhà xã hội học về ngôn ngữ định nghĩa phong cách giao tiếp là phương thức ngôn ngữ được sử dụng và thông hiểu trong một nền văn hóa cụ thể.[115]
Bởi vì các quy tắc sử dụng ngôn ngữ được chia sẻ bởi các thành viên của một nhóm cụ thể, phong cách giao tiếp cũng trở thành một cách thể hiện và xây dựng bản sắc nhóm. Sự khác biệt về ngôn ngữ có thể trở thành dấu hiệu rõ rệt của sự phân chia giữa các nhóm xã hội; ví dụ, giọng cụ thể của một thứ tiếng (accent) có thể ngụ ý nhóm dân tộc hoặc tầng lớp xã hội mà người nói thuộc về, quê hương hoặc địa vị của người nói, hoặc thứ bậc thành thạo thứ tiếng của người nói. Những sự khác biệt này không phải là một phần của hệ thống ngôn ngữ, nhưng vẫn là một phần quan trọng trong cách con người sử dụng ngôn ngữ như một công cụ xã hội để xây dựng các nhóm.[116]
Tuy vậy, nhiều ngôn ngữ cũng có các quy ước ngữ pháp báo hiệu vị trí xã hội của người nói trong mối quan hệ với người khác thông qua việc sử dụng các âm vực có liên quan đến thứ bậc hoặc phân cấp xã hội. Trong nhiều ngôn ngữ, có sự khác biệt về văn phong hoặc thậm chí ngữ pháp giữa lối nói của đàn ông và đàn bà, giữa các nhóm tuổi hoặc giữa các tầng lớp xã hội, chẳng hạn nhiều ngôn ngữ sử dụng các từ khác nhau tùy vào người nghe. Ví dụ, trong tiếng Dyirbal, một người đàn ông đã kết hôn phải sử dụng một nhóm từ đặc biệt để chỉ các vật dụng hàng ngày khi có sự hiện diện của mẹ vợ.[117] Một số nền văn hóa có những hệ thống “trực chỉ xã hội” (social deixis) rất phức tạp, tức là những hệ thống báo hiệu khoảng cách xã hội thông qua phương tiện ngôn ngữ.[118] Trong tiếng Anh, trực chỉ xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua sự phân biệt xưng hô khi gọi một số người bằng tên riêng và những người khác bằng họ; và các chức danh như “Mrs”, “boy”, “Mr” hoặc “Your Honor”. Ở các ngôn ngữ khác, những hệ thống như vậy có thể rất phức tạp và hệ thống hóa bằng toàn bộ ngữ pháp và từ vựng. Ví dụ, trong các ngôn ngữ Đông Á như tiếng Thái, tiếng Miến Điện hay tiếng Java, đại từ xưng hô phụ thuộc vào cấp bậc, trật tự hay tôn ti của người nói và đối phương, ví dụ: động vật và trẻ em xếp hạng thấp nhất, còn các vị thần và hoàng tộc sẽ đứng cao nhất.[118]
Chữ viết và biết chữ[sửa|sửa mã nguồn]
Suốt chiều dài lịch sử vẻ vang, nhiều phong thái màn biểu diễn ngôn từ bằng phương tiện đi lại trực quan đã được phát minh. Chúng được gọi là hệ chữ viết .Chữ viết khiến ngôn từ trở nên có ích hơn so với con người. Chữ viết được cho phép con người tàng trữ số lượng lớn thông tin mà hoàn toàn có thể dùng lại / kích hoạt lại sau này, đồng thời nó được cho phép con người tiếp xúc vượt khoảng cách địa lý và thời hạn, điều mà trước đó bất khả thi. Nhiều ngôn từ sử dụng những thể loại, phong thái và âm vực khác nhau giữa dạng viết và nói ; và ở 1 số ít hội đồng ngôn từ, ngôn từ viết truyền thống cuội nguồn là một ngôn từ khác trọn vẹn so với ngôn từ nói. Có một số ít vật chứng cho thấy chữ viết tác động ảnh hưởng đến sự tăng trưởng nhận thức ở con người, có lẽ rằng chính do để có được năng lực đọc viết, con người cần phải được giáo dục chính quy. [ 119 ]Thời điểm hệ chữ viết tiên phong Open có đối sánh tương quan với sự khởi đầu của thời đại đồ đồng vào cuối thiên niên kỷ thứ 4 TCN. Chữ hình nêm của người Sumer và chữ tượng hình Ai Cập cổ xưa được nhiều học giả coi là những hệ chữ viết Open sớm nhất, cả hai đều phái sinh từ những mạng lưới hệ thống hình tượng tiền-chữ viết trước đó vào lúc 3400 – 3200 TCN, với những văn bản mạch lạc sớm nhất Open vào khoảng chừng năm 2600 TCN. Phần lớn học giả cho rằng chữ viết của người Sumer là một phát minh độc lập ; tuy nhiên, vẫn còn có những tranh luận rằng chữ viết Ai Cập và chữ viết Sumer có mối quan hệ nào đó. Các chuyên viên cũng có nghi vấn tựa như về Hán tự của Trung Quốc, Open lần đầu vào khoảng chừng 1200 TCN. Các hệ chữ Trung Bộ châu Mỹ tiền-Columbus ( ví dụ chữ Olmec và chữ Maya ) nhiều năng lực đã tăng trưởng độc lập. [ 83 ]
Biến đổi ngôn từ[sửa|sửa mã nguồn]
Trang đầu tiên của bài thơ Beowulf trong tiếng Anh Cổ sơ kỳ trung đại (800–1100). Tuy tiếng Anh Cổ là tổ tiên trực tiếp của tiếng Anh hiện đại, người nói tiếng Anh hiện đại không thể hiểu được tiếng Anh Cổ.
Tất cả những ngôn từ đều đổi khác theo thời hạn khi người nói sử dụng hoặc phát minh ra những lối nói mới và Viral sang những thành viên khác trong hội đồng ngôn từ. Sự biến đổi ngôn từ xảy ra ở toàn bộ những Lever, từ âm vị đến từ vựng, hình thái, cú pháp và diễn ngôn. Mặc dù sự đổi khác ngôn từ bắt đầu thường bị coi là xấu đi bởi những người nói ngôn từ đó, thường là ” sự suy đồi ” hoặc tín hiệu lệch khỏi chuẩn mực sử dụng ngôn từ, nhưng đó là điều tự nhiên và không hề tránh khỏi. [ 120 ]
Những biến đổi có thể ảnh hưởng đến một âm vị cụ thể hoặc toàn bộ hệ thống âm vị. Sự biến đổi ngữ âm (sound change) bao hàm: sự thay thế âm tố (speech sound) hoặc nét khu biệt (distintive feature) bằng một âm tố hoặc nét khu biệt khác, sự mai một hoàn toàn âm vị bị ảnh hưởng hoặc đôi khi là sự phát triển của âm vị mới chưa từng có. Sự biến đổi ngữ âm có tính điều kiện (conditioned) trong trường hợp âm đó chỉ bị biến đổi nếu nó xuất hiện ở vùng lân cận của các âm khác. Sự biến đổi ngữ âm có tính quy tắc (regular), tức là nó sẽ xuất hiện bất cứ khi nào các điều kiện cấu trúc được đáp ứng, bất kể yếu tố phi âm vị. Mặt khác, sự biến đổi ngữ âm xảy ra hãn hữu (sporadic), chỉ ảnh hưởng đến một từ hoặc một vài từ cụ thể mà không có sự đều đặn nào. Đôi khi một biến đổi đơn giản lại gây ra sự biến đổi dây chuyền khiến toàn bộ hệ thống âm vị bị ảnh hưởng. Điều này từng xảy ra trong ngữ tộc German, khi luật biến đổi âm Grimm ảnh hưởng đến tất cả các âm tắc trong hệ thống âm vị. Trong các ngôn ngữ nhánh German, phụ âm *bʰ gốc trở thành /b/, *b gốc trở thành /p/, và *p gốc trở thành /f/. Quy trình này diễn ra ở tất cả các phụ âm tắc và giúp lý giải hiện tượng các ngôn ngữ nhánh Ý như tiếng Latin lại có p ở pater ‘cha’ và pisces ‘cá’, còn các ngôn ngữ nhánh German như tiếng Anh lại có âm f ở father ‘cha’ và fish ‘cá’.[121]
Một ví dụ lịch sử nữa cho sự biến đổi ngữ âm là Đại Dịch chuyển Nguyên âm tiếng Anh, và đây chính là lý do tại sao chính tả tiếng Anh không tương thích với phát âm hiện tại. Một nguồn khác của sự biến đổi ngữ âm là sự xói mòn từ ngữ khi phát âm trở nên bất phân biệt và sự rút gọn các âm tiết hoặc âm thanh trong một từ. Ví dụ về sự rút gọn âm: mea domina trong tiếng Latin trở thành madame trong tiếng Pháp và ma’am trong tiếng Anh Mỹ.[122]
Ngữ pháp của một ngôn ngữ có thể bị biến đổi nếu các mẫu diễn ngôn như các thành ngữ hoặc các cấu trúc câu cụ thể được ngữ pháp hóa (grammaticalized). Điều này thường xảy ra khi các từ hoặc các hình vị bị lược bỏ trong lời nói hằng ngày, khiến cho hệ thống ngữ pháp sắp xếp lại một cách vô thức để bù đắp cho các yếu tố đã mất. Ví dụ, tiếng Tây Ban Nha tiêu chuẩn phải thêm âm /s/ cuối động từ để đánh dấu chủ ngữ ngôi thứ hai “bạn”; nhưng một số biến thể của tiếng Tây Ban Nha Caribe không còn âm /s/ ở cuối từ nữa, khiến người nói tiếng Tây Ban Nha Caribe hiện nay phải diễn đạt ngôi thứ hai bằng cách sử dụng đại từ tú. Chẳng hạn, câu hỏi “tên bạn là gì” trong tiếng Tây Ban Nha chuẩn là ¿como te llamas? [ˈKomo te ˈjamas], song trong tiếng Tây Ban Nha Caribe phải là [ˈkomo ˈtu te ˈjama]. Một sự biến đổi ngữ âm đơn giản có thể gây ảnh hưởng đến hình thái lẫn cú pháp.[123] Một nguyên nhân phổ biến khác của sự biến đổi ngữ pháp là “sự hóa thạch” dần dần các thành ngữ thành các dạng ngữ pháp mới, điển hình như cấu trúc “going to” trong tiếng Anh, đang dần trở thành một thì tương lai ngữ pháp chính thức trong nhiều biến thể Anh ngữ (ví dụ: I’m gonna).
Sự biến đổi hoàn toàn có thể được thôi thúc bởi những yếu tố ” nội tại ngôn từ “, ví dụ điển hình cách phát âm biến hóa do những âm tố gần giống nhau khó phân biệt bị đồng nhất, hoặc trải qua những kiểu mẫu đổi khác khiến cho những cấu trúc hiếm gặp ” trôi dạt ” thành những cấu trúc thường thì hơn. [ 124 ] Một số biến hóa ngôn từ xảy ra bởi nguyên do xã hội, ví dụ điển hình khi một cách phát âm được link với nhóm / những tầng lớp xã hội nhất định hoặc với hệ tư tưởng nhất định, và do đó cách phát âm ấy lan sang những cá thể muốn trở thành một phần của nhóm hoặc hệ tư tưởng đó. Vì lẽ đó, những yếu tố tương quan đến truyền thống và chính trị cũng hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động thâm thúy đến cấu trúc ngôn từ. [ 125 ]
Tiếp xúc ngôn từ[sửa|sửa mã nguồn]
Một nguyên do nữa rất quan trọng so với quy trình biến hóa ngôn từ là sự tiếp xúc và lan tỏa đặc thù ngôn từ. Tiếp xúc ngôn từ xảy ra khi những nhóm người nói hai hoặc nhiều ngôn từ / phương ngữ tương tác dai dẳng với nhau. [ 126 ] Đa ngôn ngữ rất phổ cập suốt lịch sử dân tộc quả đât, và lúc bấy giờ, phần nhiều dân số loài người biết từ hai ngôn từ trở lên. Trước khi Open khái niệm vương quốc dân tộc bản địa, chỉ có những nhóm dân cư sinh sống trên những hòn đảo nhỏ cô lập mới không biết ngôn từ nào ngoài tiếng mẹ đẻ. Nhưng sau sự trỗi dậy của ý thức hệ coi một dân tộc-một nhà nước-một ngôn từ là thể chế chính trị lý tưởng nhất, chủ nghĩa đơn ngôn từ mới có thời cơ lan rộng toàn thế giới. Trên quốc tế hiện chỉ có 250 vương quốc cùng với khoảng chừng 6.000 ngôn từ, do vậy, hầu hết những vương quốc thực ra đều đa ngôn ngữ và hầu hết những ngôn từ sống sót trong mối liên hệ lân cận với những ngôn từ khác. [ 127 ]
Khi các cộng đồng nói các ngôn ngữ khác nhau sinh sống trao đổi ngay sát nhau, thì sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ của họ là điều hiển nhiên. Thông qua sự tiếp xúc ngôn ngữ bền vững trong một khoảng thời gian dài, đặc điểm ngôn ngữ sẽ bị khuếch tán giữa các ngôn ngữ. Tức là nếu chúng tuy thuộc các ngữ hệ khác nhau và ban đầu không có nhiều điểm chung, sau khi tiếp xúc lâu dài lại bị hội tụ và trở nên giống nhau hơn. Ở những khu vực có nhiều ngôn ngữ tiếp xúc, điều này có thể dẫn đến việc hình thành các Sprachbund hay vùng ngôn ngữ, trong đó các ngôn ngữ không liên quan chia sẻ nhiều điểm chung. Một số vùng ngôn ngữ đã được ghi nhận là vùng ngôn ngữ Balkan, vùng ngôn ngữ Trung Bộ châu Mỹ, vùng ngôn ngữ Ethiopia, v.v. Ngoài ra, các khu vực diện rộng như Nam Á, Châu Âu và Đông Nam Á đôi khi cũng được coi là các vùng ngôn ngữ vì sự phổ biến của nhiều đặc điểm vùng (areal feature).[128][129]
Tiếp xúc ngôn ngữ cũng có thể dẫn đến nhiều hiện tượng ngôn ngữ thú vị khác, bao gồm hội tụ ngôn ngữ (language convergence), sự vay mượn (borrowing) và sự thay thế từ vựng (relexification). Nếu các ngôn ngữ tiếp xúc dai dẳng với nhau, một hoặc nhiều ngôn ngữ hỗn hợp không thuộc ngữ hệ nào có khả năng sẽ được khai sinh. Ngôn ngữ pidgin (hoặc tiếng bồi) là một thể loại ngôn ngữ trộn, xuất hiện khi hai nhóm người trưởng thành nói hai ngôn ngữ riêng biệt thường xuyên trao đổi và tương tác với nhau, nhưng không nhóm nào biết nói trôi chảy ngôn ngữ của nhóm kia. Trong trường hợp đó, hai nhóm thường sẽ xây dựng hình thức ngôn ngữ có đặc điểm ngôn ngữ của cả hai nhóm, nhưng với cấu trúc ngữ pháp và ngữ âm được giản lược. Thứ tiếng mới đó có thể tiếp thu hầu hết phạm trù ngữ pháp và ngữ âm tồn tại ở ngôn ngữ cha mẹ. Định nghĩa chính thức của tiếng bồi là ngôn ngữ mà không có người bản ngữ, mà chỉ là ngôn ngữ thứ cấp được nói bởi những người đã có sẵn tiếng mẹ đẻ rồi. Tuy vậy, nếu tiếng bồi trở thành ngôn ngữ chính của một cộng đồng, thì thế hệ sau lớn lên trong môi trường đó sẽ thụ đắc tiếng bồi như tiếng mẹ đẻ của chúng. Trong quá trình truyền khẩu, cấu trúc của tiếng bồi sẽ thay đổi và trở nên phức tạp hơn theo thời gian. Các nhà ngôn ngữ học gọi thứ tiếng bồi đã trải qua sự phức tạp hóa là ngôn ngữ Creole (hoặc tiếng lai). Ví dụ: tiếng Tok Pisin là một ngôn ngữ lai chính thức của Papua New Guinea, ban đầu là một ngôn ngữ pidgin dựa trên tiếng Anh và tiếng Nam Đảo; tiếng Kreyòl ayisyen là một ngôn ngữ phái sinh từ tiếng Pháp ở Haiti; tiếng Michif là một ngôn ngữ lai giữa tiếng Cree của thổ dân Anh-điêng và tiếng Pháp.[130]
Sự phong phú ngôn từ[sửa|sửa mã nguồn]
SIL Ethnologue định nghĩa “ngôn ngữ sống” là “ngôn ngữ có ít nhất một người nói và phải là ngôn ngữ đầu tiên của họ”. Số lượng chính xác các ngôn ngữ sống đã biết dao động trong khoảng 6.000 đến 7.000, tùy thuộc vào định nghĩa “ngôn ngữ” của mỗi tác giả và phương thức xác định sự khác biệt giữa “ngôn ngữ” và “phương ngữ”. Tính đến năm 2016, Ethnologue đã lập danh mục 7.097 ngôn ngữ sống của con người.[133] Ethnologue phân loại nhóm ngôn ngữ dựa trên các nghiên cứu về mức độ thông hiểu lẫn nhau (mutual intelligibility), và do đó thường bao gồm nhiều mục hơn các phân loại bảo thủ. Ví dụ, tiếng Đan Mạch được hầu hết các nhà ngôn ngữ học coi là một ngôn ngữ với một phương ngữ nhưng Ethnologue lại liệt thành hai ngôn ngữ riêng biệt (ngôn ngữ Đan Mạch và phương ngữ/ngôn ngữ Jutland).[131]
Theo Ethnologue, 389 ngôn ngữ (chiếm 6% tổng số ngôn ngữ) có hơn một triệu người nói. Những ngôn ngữ này cộng lại chiếm 94% dân số thế giới, trong khi 94% ngôn ngữ trên thế giới được nói bởi 6% dân số toàn cầu còn lại.
Ngôn ngữ và phương ngữ[sửa|sửa mã nguồn]
Không có sự phân biệt rõ ràng giữa ngôn từ và phương ngữ. Nhà ngôn ngữ học Max Weinreich từng nói một câu cách ngôn rất nổi tiếng rằng ” ngôn từ là một phương ngữ với quân đội và thủy quân “. [ 134 ] Biên giới những vương quốc thường bóp méo sự độc lạ ngôn từ thực ra, làm khó khăn vất vả cho việc phân loại ngôn từ và phương ngữ. Ví dụ, tiếng Khách Gia, tiếng Quảng Đông và tiếng Quan Thoại thường được coi là ” phương ngữ ” của tiếng Trung, mặc dầu sự độc lạ giữa chúng rất lớn, hơn cả sự độc lạ giữa giọng TP. Hà Nội và giọng thành phố Hồ Chí Minh của tiếng Việt ví dụ điển hình. Trước cuộc chiến tranh Nam Tư, tiếng Serbo-Croatia được coi là một ngôn từ duy nhất với hai biến thể quy chuẩn, nhưng vì nguyên do chính trị xã hội, tiếng Croatia và tiếng Serbia lúc bấy giờ bị coi là những ngôn từ riêng không liên quan gì đến nhau và sử dụng những hệ chữ viết khác nhau. Nói cách khác, sự phân biệt ngôn ngữ-phương ngữ còn phụ thuộc vào vào tình hình chính trị, văn hóa truyền thống, hệ chữ viết hoặc mức độ thông hiểu lẫn nhau. [ 135 ]
Các ngữ hệ của quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Các ngữ hệ chính trên thế giới (tuy có một số trường hợp là nhóm ngôn ngữ địa lý). Xem Phân bố của ngôn ngữ trên thế giới để có chi tiết hơn.
Các ngôn từ trên quốc tế hoàn toàn có thể được nhóm lại thành những ngữ hệ nếu người ta chứng tỏ được chúng diễn tiến từ một tổ tiên chung. Hiện nay những nhà ngôn ngữ học đã xác lập được hàng trăm ngữ hệ, tuy nhiên phải quan tâm rằng những ngữ hệ hoàn toàn có thể được gộp lại nếu những vật chứng mới mở ra ủng hộ tổ tiên chung của chúng. Ngoài ra, cũng sống sót hàng tá ngôn từ khác biệt, tức những ngôn từ không hề được chứng tỏ là có quan hệ ” di truyền ” với bất kể ngôn từ nào khác trên quốc tế. Một vài ví dụ nổi bật gồm có : tiếng Basque ở châu Âu, tiếng Zuni ở New Mexico, tiếng Purépecha ở Mexico, tiếng Ainu ở Nhật Bản, tiếng Burushaski ở Pakistan, v.v. [ 136 ]Ngữ hệ có nhiều người nói nhất trên quốc tế là hệ Ấn-Âu với khoảng chừng 46 % dân số quốc tế sử dụng. [ 137 ] Hệ này gồm có nhiều ngôn từ chính trên quốc tế như tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga và tiếng Hindustani ( tiếng Hindi / tiếng Urdu ). Ngữ hệ Hán-Tạng được sử dụng bởi tầm 20 % [ 137 ] dân số quốc tế và gồm có nhiều ngôn từ ở Đông Á, gồm có tiếng Khách Gia, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Tây Tạng, tiếng Miến Điện và hàng trăm ngôn từ khác. [ 138 ]Châu Phi là ngôi nhà chung của rất nhiều ngữ hệ. Lớn nhất trong số đó là ngữ hệ Niger-Congo, gồm có những ngôn từ như tiếng Swahili, tiếng Shona và tiếng Yoruba. Người nói những ngôn từ Niger-Congo chiếm 6,9 % dân số quốc tế. [ 137 ] Có một số lượng tương tự như người nói những ngôn từ Phi-Á ở châu Phi và châu Á, gồm có ngữ tộc Semit như tiếng Ả Rập, tiếng Do Thái và những ngôn từ của vùng Sahara, ví dụ điển hình ngữ tộc Berber và tiếng Hausa. [ 138 ]Ngữ hệ Nam Đảo được 5,5 % dân số quốc tế sử dụng và phân bổ trải dài từ Madagascar đến Khu vực Đông Nam Á hải đảo rồi ra tận Châu Đại Dương. [ 137 ] Hệ này gồm có những ngôn từ như tiếng Malagasy, tiếng Māori, tiếng Samoa và nhiều ngôn từ địa phương của Indonesia và Đài Loan. Các ngôn từ Nam Đảo có nguồn gốc từ hòn đảo Đài Loan vào khoảng chừng 3000 năm TCN và bành trướng qua châu Đại dương trải qua những luồng di cư trên đại dương với công nghệ tiên tiến hàng hải tiên tiến và phát triển của người Nam Đảo. Các ngữ hệ đông dân khác là hệ Dravidia ở Nam Á ( ví dụ điển hình tiếng Kannada, tiếng Tamil và tiếng Telugu ), hệ Turk ở Trung Á ( ví dụ điển hình tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Duy Ngô Nhĩ ), hệ Nam Á ( ví dụ điển hình tiếng Môn, tiếng Khmer và tiếng Việt ), và hệ Tai – Kadai ở Khu vực Đông Nam Á ( ví dụ điển hình tiếng Thái, tiếng Lào và tiếng Tày ). [ 138 ]Các khu vực trên quốc tế có sự phong phú ngôn từ lớn nhất, ví dụ điển hình Châu Mỹ, Papua New Guinea, Tây Phi và Nam Á, có hàng trăm ngữ hệ nhỏ. Những khu vực này có sự phong phú ngôn từ rất cao so với quốc tế mặc dầu không chiếm phần đông người nói. Ở châu Mỹ, một số ít ngữ hệ lớn nhất gồm có ngữ hệ Quechua, ngữ hệ Arawak, và ngữ hệ Tupi-Guarani của Nam Mỹ, ngữ hệ Ute-Aztec, ngữ hệ Oto-Mangue và ngữ hệ Maya của Trung Bộ châu Mỹ, và ngữ hệ Na-Dene, ngữ hệ Iroquois và ngữ hệ Algonqui của Bắc Mỹ. Ở Úc, hầu hết những ngôn từ địa phương thuộc về ngữ hệ Pama – Nyungar, còn New Guinea là nơi phân bổ phần nhiều những hệ nhỏ và những nhóm khác biệt, cũng như 1 số ít ngôn từ Nam Đảo. [ 136 ]
Ngôn ngữ bị rình rập đe dọa[sửa|sửa mã nguồn]
Tổng cộng lại, 8 nước màu đỏ trên biểu đồ này là mái nhà của hơn 50% ngôn ngữ toàn cầu. Các vùng màu xanh nước biển là các khu vực đa dạng ngôn ngữ nhất thế giới, và cũng là nơi có nhiều ngôn ngữ đang lâm nguy nhất thế giới.
Một ngôn ngữ được coi là bị đe dọa khi đa số người nói ngôn ngữ đó mất đi hoặc chuyển sang dùng ngôn ngữ khác. Sự mai một ngôn ngữ xảy ra khi một ngôn ngữ không còn người nói bản ngữ và trở thành ngôn ngữ chết. Nếu một ngôn ngữ chết không được lưu giữ lại hoặc không phát sinh ra ngôn ngữ hậu duệ nào, thì nó được gọi là một ngôn ngữ thất truyền hay “tuyệt chủng” (extinct). Sự thất truyền ngôn ngữ là điều thường xuyên xảy ra suốt lịch sử nhân loại; tuy vậy khi nhân loại bước vào thế kỷ 20 và 21, nhiều ngôn ngữ đang dần biến mất với tốc độ nhanh chóng mặt do các quá trình toàn cầu hóa và chủ nghĩa thực dân mới, điều kiện mà khiến cho các ngôn ngữ nhỏ bị lấn át bởi các ngôn ngữ có vị thế kinh tế-xã hội vượt trội hơn.[6]
Trong số 6.000 [ 5 ] đến 7.000 ngôn từ được sử dụng tính đến năm 2010, 50-90 % tổng số đó được Dự kiến là sẽ thất truyền vào năm 2100. [ 6 ] 20 ngôn từ top đầu đều có hơn 50 triệu người nói, chiếm tận 50 % dân số quốc tế ; trong khi đó, hầu hết những ngôn từ nhỏ có số lượng người nói chỉ vỏn vẹn dưới 10.000. [ 6 ]Tổ chức Giáo dục đào tạo, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc ( UNESCO ) đề ra 5 mức độ nguy cấp ngôn từ như sau : ” bảo đảm an toàn “, ” sắp nguy cấp ” ( trẻ nhỏ chỉ nói ngôn từ đó ở nhà ), ” chắc như đinh nguy cấp ” ( trẻ nhỏ không được nói ngôn từ đó ), ” cực kỳ nguy cấp ” ( chỉ thế hệ già lão mới biết nói ngôn từ đó ) và ” nguy cấp trầm trọng ” ( chỉ một bộ phận thế hệ già nhất biết nói ngôn từ đó, mà cũng hiếm khi sử dụng trong hội thoại hằng ngày ). Bất chấp những luận điệu kiểu như ” quốc tế sẽ tốt đẹp hơn nếu mọi người chỉ sử dụng một ngôn từ chung duy nhất “, ví dụ điển hình tiếng Anh hoặc tiếng Esperanto, những chuyên gia đồng thuận rằng sự mai một ngôn từ sẽ gây tổn hại tới phong phú văn hóa truyền thống của quốc tế. Quay lại câu truyện về tháp Babel trong Cựu ước, nhiều người tin rằng sự phong phú ngôn từ là nguyên do gây ra xung đột chính trị, [ 37 ] nhưng điều này xích míc với trong thực tiễn rằng nhiều xung đột lớn trên quốc tế diễn ra ở những nơi có sự phong phú ngôn từ rất thấp, ví dụ điển hình cuộc chiến tranh Nam Tư và nội chiến Hoa Kỳ, hoặc cuộc diệt chủng Rwanda, trong khi nhiều nơi có sự phong phú ngôn từ cao lại có tình hình chính trị rất không thay đổi. [ 139 ]
Nhiều dự án đã và đang được đưa ra nhằm ngăn chặn hoặc làm chậm lại sự mất mát ngôn ngữ bằng cách tái thiết các ngôn ngữ đang bị đe dọa, ví dụ như việc thúc đẩy giáo dục và xóa nạn mù chữ ở các cộng đồng bản ngữ. Trên khắp thế giới, nhiều quốc gia đã ban hành những đạo luật cụ thể nhằm bảo tồn các ngôn ngữ bản địa. Tuy vậy, một số ít các nhà ngôn ngữ học cho rằng sự mất mát ngôn ngữ là quá trình tự nhiên không nên chống lại, và việc lưu trữ các ngôn ngữ đó cho hậu thế đã là quá đủ.[140]
Noi theo dự án Bất Động Sản hồi sinh tiếng Wales đã rất thành công xuất sắc ở Anh, Đại học Waikato ở New Zealand cũng đã khởi hoạt chương trình phục sinh tiếng Māori của riêng họ. [ 141 ] [ 142 ] Năm 2019, công ty truyền hình Hawaii thuộc kênh Oiwi đã đến thăm một TT dạy tiếng Wales ở Nant Gwrtheyrn, Bắc Wales, để trao đổi nhằm mục đích tìm giải pháp bảo tồn ngôn từ Ōlelo Hawaiʻi của họ. [ 143 ]
Thư mục tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]
Từ điển tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]
- Xuân Hạo, Cao; Dũng, Hoàng (2004). Đề tài khoa học cấp Bộ: Thuật ngữ ngôn ngữ học/Anh-Việt/Việt-Anh. Thành phố Hồ Chí Minh: Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]