QUỐC HỘI ——-
Số : 42/2019 / QH14 |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc —————
|
LUẬT
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT KINH DOANH BẢO HIỂM, LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 61/2010/QH12 và Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12.
Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ
1. Sửa đổi, bổ sung như sau:
“a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký.
Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;”.
2. Sửa đổi, bổ trợ và bổ trợ khoản 4 vào sau như sau :“ 3. Sáng chế không bị coi là mất tính mới nếu được người có quyền ĐK pháp luật tại của Luật này hoặc người có được thông tin về sáng tạo một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ người đó thể hiện công khai minh bạch với điều kiện kèm theo đơn ĐK sáng tạo được nộp tại Nước Ta trong thời hạn mười hai tháng kể từ ngày thể hiện .4. Quy định tại khoản 3 Điều này cũng vận dụng so với sáng tạo được thể hiện trong đơn ĐK chiếm hữu công nghiệp hoặc văn bằng bảo lãnh chiếm hữu công nghiệp do cơ quan quản trị nhà nước về chiếm hữu công nghiệp công bố trong trường hợp việc công bố không tương thích với lao lý của pháp lý hoặc đơn do người không có quyền ĐK nộp. ” .
3. Sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 61. Trình độ sáng tạo của sáng chế
1. Sáng chế được coi là có trình độ sáng tạo nếu căn cứ vào các giải pháp kỹ thuật đã được bộc lộ công khai dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc dưới bất kỳ hình thức nào khác ở trong nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế trong trường hợp đơn đăng ký sáng chế được hưởng quyền ưu tiên, sáng chế đó là một bước tiến sáng tạo, không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình về lĩnh vực kỹ thuật tương ứng.
2. Giải pháp kỹ thuật là sáng chế được bộc lộ theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 60 của Luật này không được lấy làm cơ sở để đánh giá trình độ sáng tạo của sáng chế đó.”.
4. Sửa đổi, bổ trợ một số ít khoản của Điều 80 như sau :
a) Sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Tên gọi, chỉ dẫn đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa theo nhận thức của người tiêu dùng có liên quan trên lãnh thổ Việt Nam;”
b) Sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự với một nhãn hiệu đang được bảo hộ hoặc đã được nộp theo đơn đăng ký nhãn hiệu có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn, nếu việc sử dụng chỉ dẫn địa lý đó được thực hiện thì có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc thương mại của hàng hóa;”.
5. Bổ sung khoản 3 vào sau như sau:
“3. Đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp được nộp dưới hình thức văn bản ở dạng giấy cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp hoặc dạng điện tử theo hệ thống nộp đơn trực tuyến.”.
6. Sửa đổi, bổ sung tên Mục 4 Chương VIII như sau:
“Mục 4
ĐƠN QUỐC TẾ, ĐỀ NGHỊ QUỐC TẾ VÀ XỬ LÝ ĐƠN QUỐC TẾ, ĐỀ NGHỊ QUỐC TẾ”
7. Bổ sung Điều 120a vào sau trong Mục 4 Chương VIII như sau:
“Điều 120a. Đề nghị quốc tế và xử lý đề nghị quốc tế về chỉ dẫn địa lý
1. Đề nghị công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang đàm phán gọi là đề nghị quốc tế.
2. Việc công bố đề nghị quốc tế, xử lý ý kiến của người thứ ba, đánh giá điều kiện bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý trong đề nghị quốc tế được thực hiện theo các quy định tương ứng tại Luật này đối với chỉ dẫn địa lý trong đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý được nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.”.
8. Sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Chủ sở hữu nhãn hiệu có nghĩa vụ sử dụng liên tục nhãn hiệu. Việc sử dụng nhãn hiệu bởi bên nhận chuyển quyền theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu cũng được coi là hành vi sử dụng nhãn hiệu của chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong trường hợp nhãn hiệu không được sử dụng liên tục từ năm năm trở lên thì Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đó bị chấm dứt hiệu lực theo quy định tại Điều 95 của Luật này.”.
9. Sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 148. Hiệu lực của hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
1. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp.
2. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Luật này, hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên.
3. Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp tại khoản 2 Điều này, trừ hợp đồng sử dụng nhãn hiệu, phải đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp mới có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba.
4. Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mặc nhiên bị chấm dứt hiệu lực nếu quyền sở hữu công nghiệp của bên giao bị chấm dứt.”.
10. Bổ sung khoản 4 và khoản 5 vào sau như sau :“ 4. Tổ chức, cá thể là bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu được Tòa án Tóm lại là không triển khai hành vi xâm phạm có quyền nhu yếu Tòa án buộc nguyên đơn giao dịch thanh toán cho mình ngân sách hài hòa và hợp lý để thuê luật sư hoặc những ngân sách khác theo lao lý của pháp lý .5. Tổ chức, cá thể lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà gây thiệt hại cho tổ chức triển khai, cá thể khác thì tổ chức triển khai, cá thể bị thiệt hại có quyền nhu yếu Tòa án buộc bên lạm dụng thủ tục đó phải bồi thường cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, trong đó gồm có ngân sách hài hòa và hợp lý để thuê luật sư. Hành vi lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ gồm có hành vi cố ý vượt quá khoanh vùng phạm vi hoặc tiềm năng của thủ tục này. ” .
11. Sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã gây thiệt hại về vật chất cho mình thì có quyền yêu cầu Tòa án quyết định mức bồi thường theo một trong các căn cứ sau đây:
a) Tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất;
b) Giá chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu trí tuệ trong phạm vi tương ứng với hành vi xâm phạm đã thực hiện;
c) Thiệt hại vật chất theo các cách tính khác do chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với quy định của pháp luật;
d) Trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá năm trăm triệu đồng.”.
12. Sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Khi người yêu cầu tạm dừng làm thủ tục hải quan đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại Điều 217 của Luật này thì cơ quan hải quan ra quyết định tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với lô hàng. Cơ quan hải quan cung cấp cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thông tin về tên và địa chỉ của người gửi hàng; nhà xuất khẩu, người nhận hàng hoặc nhà nhập khẩu; bản mô tả hàng hóa; số lượng hàng hóa; nước xuất xứ của hàng hóa nếu biết, trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định áp dụng biện pháp hành chính để xử lý đối với hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu và hàng hóa sao chép lậu theo quy định tại khoản 4 Điều 216 của Luật này.”.
Điều 3. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thực thi hiện hành thi hành từ ngày 01 tháng 11 năm 2019, trừ trường hợp pháp luật tại khoản 4 Điều này .Từ ngày 01/01/2021, Khoản 2 Điều 3 tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ của Quốc hội, số 42/2019/QH14 bị hết hiệu lực do Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 42/2019/QH14 hết hiệu lực theo quy định tại Luật Đầu tư của Quốc hội, số 61/2020/QH14.
3. Các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm mới phát sinh trong hoạt động giải trí kinh doanh bảo hiểm do nhà nước lao lý và phải được sự đồng ý chấp thuận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi phát hành .4. Các lao lý về chiếm hữu trí tuệ tại Luật này có hiệu lực hiện hành thi hành từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 so với những trường hợp sau đây :a ) Đơn ĐK xác lập quyền sở hữu công nghiệp có ngày nộp đơn từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 ;b ) Yêu cầu hủy bỏ hiệu lực hiện hành Bằng độc quyền sáng tạo, Bằng độc quyền giải pháp hữu dụng, Giấy ghi nhận ĐK hướng dẫn địa lý được cấp trên cơ sở đơn ĐK xác lập quyền sở hữu công nghiệp có ngày nộp đơn từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 ;c ) Yêu cầu chấm hết hiệu lực hiện hành của Giấy ghi nhận ĐK thương hiệu được thực thi từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 ;d ) Vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ được cơ quan có thẩm quyền thụ lý từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 ; nhu yếu khác về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ được thực thi từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 .
Điều 4. Quy định chuyển tiếp
1. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thực thi hiện hành, cá thể, tổ chức triển khai phân phối dịch vụ phụ trợ bảo hiểm trước ngày Luật này có hiệu lực thực thi hiện hành phải phân phối những điều kiện kèm theo phân phối dịch vụ phụ trợ bảo hiểm theo pháp luật tại Luật này. Trường hợp hết thời hạn lao lý tại khoản này mà không cung ứng những điều kiện kèm theo theo lao lý thì cá thể, tổ chức triển khai không được liên tục phân phối dịch vụ phụ trợ bảo hiểm cho đến khi phân phối đủ điều kiện kèm theo .2. Các đơn ĐK sáng tạo, hướng dẫn địa lý được nộp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 được liên tục giải quyết và xử lý theo lao lý của Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005 / QH11 đã được sửa đổi, bổ trợ 1 số ít điều theo Luật số 36/2009 / QH12 .3. Các hợp đồng sử dụng thương hiệu đã ký kết giữa những bên nhưng chưa được ĐK với cơ quan quản trị nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 chỉ có giá trị pháp lý so với bên thứ ba kể từ ngày 14 tháng 01 năm 2019 .
4. Các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được cơ quan có thẩm quyền thụ lý trước ngày 14 tháng 01 năm 2019 nhưng chưa giải quyết xong thì tiếp tục áp dụng quy định của Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 36/2009/QH12 để giải quyết.
Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2019.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Thị Kim Ngân
|