1 Hoàn cảnh lịch sử vẻ vang ra đời của CNXHKH
Điều kiện kinh tế tài chính – xã hội
Về kinh tế
– Trong những năm 40 của thế kỷ 19, dưới sự tác động của Cách mạng Công nghiệp, Chủ nghĩa tư
bản đã có sự tăng trưởng quan trọng làm thể hiện
bản chất và những mâu thuẫn nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
– Sự phát triển quan trọng ở đây đó là chủ nghĩa tư bản hình thành chưa đầy 1 thế kỉ nhưng nó đã
tạo ra một khối lượng lực lượng sản xuất khổng lồ bằng tất cả các xã hội trước cộng lại.
– Chính sự phát triển rất nhanh của lực lượng sản xuất đã tác động tới phương thức sản xuất dẫn
tới xích míc giữa lực lượng sản xuất mang tính
Xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất .
– Bằng chứng thể hiện một cách rõ nhất mâu thuẫn này chính là các cuộc khủng hoảng kinh tế
mang tính chu kì ( 1825, 1836, 1847, 1857 ) cho thấy mâuthuẫn ngày càng nhanh hơn, nóng bức hơn .
– Các cuộc khủng hoảng là minh chứng cho sự mất cân bằng cung và cầu trên thị trường. Khi cung
lớn hơn cầu thì dẫn tới khủng hoàng thừa, sau
khủng hoảng thừa thì người ta lại hạn chế sản xuất, thu hẹp quy mô sản xuất dẫn tới cung nhỏ hơn
cầu và dẫn tới khủng hoảng thiếu .
– Qua đó ta thấy được học thuyết kinh tế bàn tay vô hình (để thị trường tự điều tiết) không còn phù
hợp nữa. Tất yếu nó cần được thay thế bằng một
học thuyết kinh tế tài chính khác .
– Đó là lý do các nhà kinh tế đã đưa ra các quan điểm về sự điều tiết của nhà nước dưới góc độ vĩ
mô để tránh những tổn thất của những cuộc khủng hoảng cục bộ .Về xã hội
– Cùng với sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra giai cấp vô sản,
là những người trực tiếp
vận hành trong các dây chuyền sản xuất và cũng là người đại diện cho lực lượng sản xuất. Đến thời
điểm này, giai cấp công nhân đã có sự phát triển về số lượng và chất lượng.
– Cùng với sự phát triển của giai cấp công nhân cũng đã hình thành nên những mâu thuẫn của giai
cấp công nhân với giai cấp tư sản. Mâu thuẫn này
không chỉ thể hiện một cách đơn thuần như trước mà đã biểu hiện một cách gay gắt và những mâu
thuẫn này là những xích míc đối kháng không hề
điều hòa được, thể hiện thông qua 3 phòng trào đấu tranh, khởi nghĩa trên quy mô lớn của giai cấp
công nhân ở Pháp (1831, 1834), Đức (1844) và ở Anh
( 1836 – 1848 ) .
– Địa điểm diễn ra các cuộc khởi nghĩa đều là những nước đã và đang chịu sự tác động của cách
mạng công nghiệp và giai cấp công nhân đã trưởng
thành, trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để đòi hỏi
những quyền lợi về kinh tế tài chính và chính trị cho giai cấp của mình .
– Tất cả phong trào đấu tranh có thể diễn ra 1 lần, 2 lần hay diễn ra trong 1 thời gian dài nhưng tóm
lại đều là đấu tranh tự phát, chịu tác động ảnh hưởng của
tư tưởng tư sản, sớm hay muộn cũng bị giai cấp tư sản đàn áp và thất bại.
– Chính những phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã đi đến một yêu cầu đặt ra đối với
thực tiễn là để giai cấp công nhân có thể đấu tranh chiến thắng giai cấp tư sản thì họ cần có một lý
luận cách mạng soi đường .
– Đặt ra yêu cầu cho các nhà khoa học nghiên cứu thực tiễn để khái quát thành lý luận. Từ đó, Mác
và Ăngghen trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn về kinh tế, sự phát triển của phong trào công nhân đã
tạo ra những điều kiện khách quan để cho ra đời Chủ nghĩa xã hội khoa học.