Thầy cho rằng, có ý chí và ý thức học tập, thì thế nào học cũng được. Động lực sẽ quyết định hành động, có quyết tâm trước rồi tính tiếp, rồi cũng học và có tác dụng tốt thôi .
Trí thông minh nhân tạo, được dịch sát nghĩa từ cụm từ Artificial Intelligence, viết tắt là AI, là một loại trí thông minh khác với “trí thông minh tự nhiên [của con người]” (natural intelligence?!) và nó được tạo ra bởi con người (nhân tạo). Đây là một thuật ngữ thường được biết đến trong lĩnh vực công nghệ [thông tin].
Thuật ngữ này được định nghĩa và có sự phân loại khá đa dạng, thì tùy vào góc nhìn và khả năng ứng dụng trong từng lĩnh vực và từng mức độ khác nhau. Nếu hỏi vài kĩ sư công nghệ thông tin làm việc ở những bộ phận khác nhau, về khái niệm này, thì rất dễ thấy những cách hiểu khác nhau của mỗi người; về bản chất cũng không sai lệch là bao nhiêu, nhưng cách diễn đạt hoặc nhìn nhận hiển nhiên là khác.
Danh từ Intelligence được từ điển Cambridge [Learner’s] định nghĩa là the ability to learn, understand, and make judgments or have opinions that are based on reason. (tạm dịch là khả năng học, hiểu và đưa ra những đánh giá hoặc ý kiến dựa trên việc lý luận). Vậy theo các bạn, từ này nên được dịch ra là trí tuệ hay trí thông minh?
Dịch ngắn gọn, phổ biến và nghe có vẻ “sang” hơn của (cụm từ) Artificial Intelligence trong tiếng Việt là trí tuệ nhân tạo. Tuy nhiên, ở khía cạnh ngôn từ (và ý nghĩa nội hàm trong một vài ngữ cảnh) thì trí thông minh và trí tuệ có sự khác biệt rất lớn. Các bạn có thể tìm hiểu thêm trong một số lĩnh vực tinh thần và tâm linh.
Cũng nên hiểu rằng, một số ít khái niệm ( hoặc thuật ngữ ), dịch từ ngôn từ này sang ngôn từ khác, làm thế nào tương thích với văn hóa truyền thống và hiểu được ngọn nguồn ( truy về nguồn cội ) là việc vô cùng khó khăn vất vả .
Cơ bản, như thầy từng đề cập trong một số bài viết trước đây, việc định danh bất kì sự kiện hay hiện tượng gì thường chỉ mang tính tương đối, như người xưa từng nói lập ngôn là chuyện rất khó, hay như Đức Lão Tử đã dạy “Danh khả danh, phi thường danh“.
Cho nên, việc làm quen và thích nghi được với sự mờ mờ ảo ảo đầy rủi ro đáng tiếc, hiểu nhầm, tin giả v.v. trong đời sống thường ngày cũng là một kĩ năng sống sót .
Cá nhân thầy cho rằng AI nên được dịch là trí thông minh nhân tạo, (tương đối) sát nghĩa với từ gốc trong tiếng Anh.
PHẦN II
Ứng dụng AI được cho là xu hướng thời thượng. Các bạn có thể đã nghe rất nhiều quảng cáo trên truyền thông về thuật ngữ này, trong nhiều lĩnh vực, từ cái camera điện thoại tới một ứng dụng xử lý hình ảnh và âm thanh hay một phần mềm học ngoại ngữ, đều có thể sự ứng dụng AI.
Tưởng tượng vui thế này, vài hôm nữa sẽ có máy pha thức uống, cà phê, trà sữa hay trà đào, ứng dụng AI (đỉnh cao). Khi khách bước vào quán, máy này sẽ quét toàn thân khách hàng, nhận diện (recognition) khuôn mặt, vân tay, bước chân, nhịp tim, số đo nhiều vòng v.v. và kết hợp với những dữ liệu (data), thông qua [1] nghe lén điện thoại, [2] thu thập từ mạng xã hội, như Facebook hay Instagram, [3] lấy từ các công cụ tìm kiếm như Google hay Bing, và [4] xem trộm cookie máy tính (PC) hay thiết bị thông minh như smartphone, tablet hay smartwatch v.v., sau đó tổng hợp và phân tích kho dữ liệu khổng lồ (big data) này bằng hàng loạt các kỹ thuật trong công nghệ thông tin, thì biết được gần như mọi thứ về khách hàng, bao gồm sở thích cá nhân, thói quen ăn uống, tâm trạng hiện tại v.v. Từ đó máy pha AI này sẽ đề xuất thức uống hoặc tự động pha chế ra thức uống phù hợp, dâng tận tay khách hàng.
Rủi ro ở đây là trong trường hợp máy tự động hóa pha chế xong thì người mua có khi đã thích một món khác, do một tâm lý bất chợt nào đấy. Con người đổi khác rất giật mình .
Một cái máy pha thức uống như trên có thể được tạm gọi là máy có trí thông minh ở mức độ bình thường, và thật ra, bản chất chẳng khác gì so với việc lập trình logic.
Khi nào chiếc máy này có thể làm thêm vài việc như [1] tự “sáng tạo” thêm công thức mới trong thời gian chờ khách, [2] âm thầm giảm bớt 50% lượng đường trong ly khi biết khách hàng đang có khả năng bị rối loạn chuyển hóa đường (mà chính bản thân họ cũng chưa hề hay biết), hoặc [3] tự động tăng 30% lượng đường khi biết khách hàng sắp tham gia một trò chơi vận động chân tay, thì mới có thể được xem là loại máy có trí thông minh thực sự hiệu quả, hơn hẳn và có thể thay thế những nhân viên đứng nghe khách gọi món và tính tiền.
Khi nói sâu về trí mưu trí, ở mức độ cao nhất định, những bạn sẽ thuận tiện nhận ra rằng, con người, trong rất nhiều trường hợp, thao tác hoặc học tập nhưng không thực sự mưu trí hoặc mức độ tư duy rất thấp .
Đứng ở góc nhìn ngôn từ và có một chút kiến thức về công nghệ [thông tin] thì thầy hiểu trí thông minh nhân tạo là như thế. Hiện tại, truyền thông nói rằng nhiều lĩnh vực đã ứng dụng trí thông minh nhân tạo, thầy nghĩ là chỉ ứng dụng mới ở mức độ sơ khai.
Nhiều cỗ máy có AI hiện tại vẽ được tranh như họa sĩ chuyên nghiệp, vẽ ra khuôn mặt người không khác gì ảnh chụp, hay viết được cả tiểu thuyết. Những cỗ máy này làm việc với hiệu suất (định lượng) hơn hẳn con người. Các bạn cứ tưởng tượng, một cỗ máy có thể học từ hàng trăm ngàn quyển tiểu thuyết để viết ra một quyển tiểu thuyết mới mà trong 100 người đọc, thì cũng phải có chí ít chục người khen hay. Vài chục năm nữa, không chừng giải Nobel văn chương có khi trao cho cả robot AI.
PHẦN III
Khoa học (thần kinh) Tây phương (hiện đại) nói rằng bộ não con người có cả trăm tỷ tế bào thần kinh được kết nối với nhau và vận hàng cực kì phức tạp; một số người khác còn xem (bộ não) con người chính là một tiểu vũ trụ.
Bộ vi giải quyết và xử lý máy tính hiện tại mới dừng ở Lever nguyên tử, trong khi còn rất nhiều hạt vi tiểu khác, nhỏ hơn nguyên tử rất nhiều. Tương tự với việc thầy từng đề cập trong những bài viết trước, có quan điểm cho rằng, y học văn minh chỉ mới nghiên cứu và điều tra ở cấp tế bào, và có chút thành tựu, còn những Lever thấp hơn, vi tiểu hơn tế bào thì vẫn chưa điều tra và nghiên cứu được gì nhiều. Những Kết luận y khoa hiện tại đều dựa trên nền tảng kỹ năng và kiến thức hiện tại và cũng chỉ có giá trị tương đối ở hiện tại mà thôi .
GÓC NHÌN CÁ NHÂN VỀ KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
Nếu đúng (bộ não) con người là một tiểu vũ trụ, thì việc chế tạo ra những cỗ máy đạt (gần) tới trình độ (tương đối) cao trong lĩnh vực trí thông minh nhân tạo thực sự là chuyện ở tương lai rất xa.
Không chừng, đến hết những thế hệ sau này, cũng chưa chắc thấy được những cỗ máy có trí mưu trí đúng nghĩa, được sử dụng trong trong thực tiễn đúng tên gọi trí mưu trí nhân tạo .
Còn mức độ TRÍ TUỆ nhân tạo là chuyện, hiện tại, đừng nghĩ tới làm gì.
Như ban đầu thầy đề cập, từ cái camera điện thoại tới một ứng dụng xử lý hình ảnh và âm thanh, hay một phần mềm học ngoại ngữ ứng dụng AI, chỉ là một cách nói “đại trà hóa” công nghệ.
Sử dụng và khai thác thế nào, đến mức nào là tùy thuộc vào năng lực của mỗi người dùng, không có bất kỳ tiêu chuẩn chung hay giá trị tuyệt đối ưu việt gì cả. Trong rất nhiều nghành khác, thông tin trên tiếp thị quảng cáo rất hỗn độn, pha tạp, dẫn tới nhiều rơi lệch, dẫn đến những sự hiểu rơi lệch yếu tố, không nhìn ra thực chất thực sự .
Quan điểm cá thể của thầy là, ở thời gian hiện tại, việc học tập đúng nghĩa được quyết định hành động bởi ý chí và quyết tâm của bản thân người học ; và khi đến trường, được hướng dẫn bởi đội ngũ giảng viên giỏi, đúng chuẩn. Hai yếu tố này mới chính là nền tảng cho quy trình học, chưa ( và cũng không ) cần chịu ràng buộc vào máy móc hay công nghệ tiên tiến gì cả .