Công lý vượt qua pháp luật

image001-1642127300.jpg
PGS.TS Trần Văn Độ

Những bản án sinh tử

Mỗi lần gặp Trung tướng Trần Văn Độ, tôi thường hỏi chuyện ông về pháp luật, về những vụ án mà ông đã xét xử hoặc chỉ huy, ông kể nhiều chuyện, có chuyện rất hay nhưng không tiện công bố. Một trong những ấn tượng khó quên là nhiều vụ án bị cáo bị Tòa án cấp xét xử sơ thẩm tuyên phạt tử hình hay bị truy tố về tội danh có hình phạt đến tử hình nhưng qua xét xử, ông đều tìm thấy nguyên do để không tước đoạt mạng sống của họ .
Một lần vào Tây Nguyên xét xử phúc thẩm, ông xử một bị cáo là một người lính biên phòng trẻ, quê gốc ở Quốc Oai, Hà Tây. Là lính mới, anh ta tiếp tục bị lính cũ ức hiếp, đi lấy củi cũng bị đánh, quét nhà cũng bị đánh, đi lấy cơm rồi ăn trước cũng bị đánh … Mỗi lần đánh, anh ta đều bị bắt phải ngậm một viên đá cuội để không kêu được. Một thời hạn ngắn anh ta bị đánh bảy lần và nhiều lính trẻ khác cũng bị đối xử như vậy .

Hôm đó đang đứng gác thì nhóm lính cũ gọi một người bạn thân của anh ta đến và hành hạ, cơn uất ức dồn nén lâu nay bùng lên, sẵn súng trong tay anh ta lia một băng làm ba người chết, hai người bị thương. Vào trại giam, anh ta nghe mọi người nói với tội trạng như thế, có tử hình ba lần cũng không hết tội và quả thật bản án sơ thẩm đã tuyên phạt anh ta mức án tử hình. Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán Trần Văn Độ cho rằng, nếu xử y án sơ thẩm thì cũng không ai kêu ca nhưng nguyên nhân xảy ra vụ án có lỗi của bị hại, bị cáo vốn là người tốt, bị ức hiếp, kích động dẫn đến phạm tội; ở đây còn có lỗi quản lý yếu kém của lãnh đạo đơn vị, nên cần khoan hồng, mở cho anh ta con đường sống. Hai Thẩm phán trong hội đồng cũng đồng tình nên bản án phúc thẩm xử phạt bị cáo mức án tù chung thân.

Nghe tòa tuyên án, bị cáo ngơ ngác một lúc mới hiểu là mình được sống. Sau 15 năm thụ án anh lính được trả tự do và thời nay là một chủ doanh nghiệp phát đạt có đến 300 công nhân, dù chưa gặp lại sau phiên tòa xét xử ấy nhưng thông tin về người lính trẻ năm xưa khiến ông rất vui .
Kể vụ án này, ông chứng tỏ cho quan điểm về án tử hình của mình. Ông cho rằng tử hình một người kéo theo mái ấm gia đình, cha mẹ, vợ con, thậm chí còn cả dòng họ sống trong mặc cảm, không lúc nào dám ngẩng cao đầu. Chưa kể những đứa con hoàn toàn có thể vì cha mẹ bị tử hình mà bỏ học, hoàn toàn có thể đi bụi đời, trở nên hư hỏng, hoàn toàn có thể sa chân thành tội phạm mà chưa mấy ai nghĩ đến hệ lụy đó. Mỗi năm nước ta có chừng 250 bản án tử hình được tuyên, 10 năm là 2500 bản án tử hình, kéo theo hệ lụy rất xấu. Do đó, ông cho rằng chỉ những trường hợp đặc biệt quan trọng mới dùng đến hình phạt tước đoạt sinh mệnh con người. Quan điểm đó ông san sẻ ở nhiều forum và vận dụng triệt để trong thực tiễn xét xử, nên Tòa án quân sự chiến lược những cấp dưới sự chỉ huy của Trung tướng Trần Văn Độ cũng thấm nhuần niềm tin ấy .
Trong vụ án Nguyễn Thị Thuận ở Mỹ Đình, TP.HN, vì nghi kỵ, xích míc li ti mà bị cáo nhờ hai đối tượng người tiêu dùng đổ xăng đốt nhà anh Nguyễn Chí Hưng ( Đại úy Quân đội ) khiến vợ chồng anh Hưng và con gái 6 tuổi thiệt mạng, Tòa án Quân sự Quân khu Thủ đô tuyên phạt Nguyễn Thị Thuận mức án tù chung thân, hai kẻ thực hành thực tế 20 năm và 18 năm tù .
Có dư luận cho rằng mức hình phạt chưa thỏa đáng, mái ấm gia đình những nạn nhân kháng nghị bản án xét xử sơ thẩm, ý kiến đề nghị tuyên phạt bị cáo Thuận mức án tử hình, hai đối tượng người dùng thực hành thực tế tù chung thân và trên 20 năm. Ngày 1/12/2010 Tòa phúc thẩm Tòa án Quân sự Trung ương đã thực thi xét xử phúc thẩm và tuyên y án xét xử sơ thẩm, phạt tù chung thân so với Nguyễn Thị Thuận .
Chánh án Tòa án quân sự chiến lược Trung ương Trần Văn Độ cho rằng mức án tù chung thân dành cho bị cáo Thuận là tương thích, bị cáo cũng có con nhỏ, nên dành cho bị cáo thời cơ tái tạo tốt để trở về làm chỗ dựa cho con cháu. Hơn nữa đây là án truy xét, lỡ có sai sót gì trong tìm hiểu, truy tố, xét xử mà tuyên phạt tử hình bị cáo thì không hề khắc phục được .

Bản án cần nghiêm minh, không nên nghiêm khắc

Trung tướng Trần Văn Độ học ĐH Luật, sau đó được tuyển thẳng lên nghiên cứu sinh và bảo vệ Luận án Tiến sĩ tại Đại học Lômôlôxốp ( Liên Xô ) nổi tiếng. Năm 1986, ông về công tác làm việc tại Tòa án quân sự chiến lược Trung ương liên tục, qua nhiều cương vị khác nhau, cho đến lúc nghỉ hưu với cương vị chỉ huy cao nhất của cơ quan này. Ông là một Thẩm phán Tòa án tối cao dày dạn kinh nghiệm tay nghề thực tiễn, đồng thời là một nhà khoa học với học hàm Phó Giáo sư, có quan điểm về pháp luật hình sự đồng nhất, đó là công lý vượt qua pháp luật vì pháp luật luôn chậm hơn thực tiễn đời sống. Pháp luật phải đề cao nguyên tắc pháp quyền, tôn vinh quyền con người và nguyên tắc nhân đạo. Trong xét xử, Thẩm phán ngoài địa thế căn cứ pháp luật, phải dựa vào lương tâm của mình, có cảm nhận công lý để đưa ra phán quyết nghiêm minh, nhân đạo, mở đường cho người phạm tội có thời cơ khắc phục sai lầm đáng tiếc .
– Tôi hay nói với bạn bè, với những học viên, là người phạm tội giống như họ đã dẫm vào vũng bùn, trách nhiệm của Tòa án là kéo họ trở lại chứ không phải đẩy cho họ sa lầy hơn .
– Quan niệm thường thì cho rằng, Tòa án là cơ quan xét xử đưa ra hình phạt trừng trị kẻ phạm tội để bảo vệ công minh, nhiều trường hợp dư luận rất mong Tòa xử phạt thật nghiêm khắc, ông có nghĩ sao về ý niệm đó ?
– Tôi luôn phản đối quan điểm cho rằng hình phạt là trừng trị, chính bới tiềm năng cao nhất của hình phạt là giáo dục. Tôi đã nghiên cứu và điều tra trên 100 bộ luật hình sự của những vương quốc trên quốc tế thì không thấy vương quốc nào coi trừng trị là mục tiêu tự thân của hình phạt, họ còn pháp luật hình phạt không được gây đau đớn về sức khỏe thể chất, xúc phạm đến niềm tin của người bị phán quyết. Thực tế cho thấy những nước có chủ trương hình sự nhân đạo thì tội phạm ít, nhiều nước Bắc Âu nhà tù không có phạm nhân. Trong khi đó, Nước Ta là một trong những nước có chủ trương hình sự quá nghiêm khắc, tạo ra một toàn cảnh xã hội căng thẳng mệt mỏi, con người sống trong toàn cảnh ấy dễ có hành vi bức xúc, mất trấn áp, dẫn đến phạm tội .
– Xử phạt nghiêm khắc liệu có đạt được mục tiêu răn đe những đối tượng người tiêu dùng khác ? !
– Chưa có một điều tra và nghiên cứu nào chỉ ra rằng hình phạt càng khắc nghiệt thì tội phạm càng giảm. Hồi xét xử vụ án Vũ Xuân Trường với hành vi mua và bán, luân chuyển trái phép mấy chục bánh hêrôin, Tòa án tuyên 8 bản án tử hình, lúc đó nhiều người nói rằng xử như thế thì không kẻ nào dám kinh doanh hêrôin nữa. Thực tế chứng tỏ nhận định và đánh giá đó sai, đến nay những kẻ kinh doanh, luân chuyển ma túy không ở mức mấy chục bánh nữa mà lên đến hàng tấn, số lượng ngoài sức tưởng tượng hồi đó. Năm năm trước, Tòa án Quảng Ninh đã xét xử vụ án ma túy với 36 bản án tử hình, tôi thấy không hài hòa và hợp lý, xử như thế quá khắc nghiệt .
– Nếu hình phạt nhẹ quá thì liệu có dẫn đến dân nhờn luật hay không ?
– Khi xét xử, Tòa án phải ra những bản án nghiêm minh, tức là không có bản án “ nhẹ quá ” như bạn quan ngại. Nghiêm minh là đúng pháp luật, không oan sai, không bỏ lọt tội phạm – Trung tướng Trần Văn Độ nói rồi kể về vụ án Lữ Anh Dồi .
Thiếu úy Lữ Anh Dồi bị sát hại năm 1979 tại Hộ Phòng ( Giá Rai, Bạc Liêu ) và bị Chỉ huy trưởng Công an vũ trang ( nay là Bộ đội biên phòng ) tỉnh Minh Hải vu oan giáng họa tội phản quốc. Theo hồ sơ tố tụng, thiếu úy Lữ Anh Dồi quen biết Thái Văn Hùng nên đề xuất Hùng cho mượn tàu để bắt những người vượt biên giới trái phép. Hùng báo cáo giải trình với trung tá Nguyễn Ngọc ( Phó ty Công an, Chỉ huy trưởng Công an vũ trang Minh Hải ). Ngọc nhân thời cơ này để hãm hại Lữ Anh Dồi nên báo cáo giải trình cho Trưởng ty Công an Minh Hải rằng Dồi có tư tưởng xấu đi, sa sút nhân phẩm, phản bội, có dự tính cướp tàu, cướp vũ khí để trốn đi quốc tế .
Sau đó, Ngọc chỉ đạo Hùng dữ thế chủ động móc nối, tổ chức triển khai vượt biên giới để lừa người dân và đưa Lữ Anh Dồi vào bẫy. Ngày 27/3/1979, Ngọc chỉ đạo thuộc cấp và nhóm vây bắt gồm 12 người mai phục sẵn quanh shop thu mua món ăn hải sản ở Hộ Phòng. Sau khi 53 người vượt biên giới xuống tàu, Hùng và Dồi vẫn đi lại ở khu vực bến tàu và xe của Ngọc chạy đến. Hùng giật mình rút khẩu K54 ra bắn Lữ Anh Dồi. Súng cướp cò, đạn bắn xuống sàn gạch khiến Lữ Anh Dồi giật mình. Anh nhìn vào Hùng thì đã thấy hắn chĩa súng vào mặt mình, chỉ kịp nói ” Mày bắn tao sao Hùng ? ” thì hắn siết cò, sau đó hắn còn bắn thêm hai phát nữa để giết chết Lữ Anh Dồi. Nhóm vây bắt ập vào thấy Lữ Anh Dồi nằm chết khi súng vẫn trong bao, trên tay còn điếu thuốc hút dở dang, họ hỏi Hùng sao bắn chết người thì Ngọc Open và nói : ” Nó phản bội tổ quốc, bắn bỏ không sao ” .
Nguyễn Ngọc chỉ đạo mang thi thể Lữ Anh Dồi đi chôn cất tạm bợ ở bìa rừng mà không lập biên bản. Hai ngày sau, Ngọc mới cho thuộc cấp báo vụ việc đến Viện kiểm sát .

Giữa năm 1979, Hùng bị bắt tạm giam để điều tra. Một năm sau, lực lượng Công an vũ trang chuyển cho Bộ Quốc phòng quản lý. Lúc này, Nguyễn Ngọc ở lại ngành Công an, lên Bộ Nội vụ làm việc với cấp hàm thượng tá và đi học ở nước ngoài. 

Mãi đến đầu năm 1988, vợ của thiếu úy Lữ Anh Dồi gặp được Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại Cà Mau để trình diễn vấn đề. Viện kiểm sát quân sự chiến lược Quân khu 9 sau đó nhận được thông tin của Ban Bí thư về việc xây dựng ban chỉ huy xử lý vụ án. Có quan điểm của một chỉ huy ngành Kiểm sát nhận định và đánh giá Nguyễn Ngọc chỉ có tín hiệu thiếu nghĩa vụ và trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng .
Khi đó tiến sỹ Trần Văn Độ được cử vào tương hỗ Tòa án Quân khu 9 xét xử vụ án. Do vụ án phức tạp, hai Thẩm phán được giao rất lúng túng, nên ngay trong một đêm tiến sỹ Trần Văn Độ phải viết 70 trang kế hoạch xét hỏi và 70 trang bản án. Phiên xét xử diễn ra đúng kế hoạch, bị cáo Nguyễn Ngọc bị phán quyết 18 năm tù ( trong đó 15 năm về tội Giết người và 3 năm tội Vu khống ), Thái Văn Hùng bị phán quyết tù chung thân vì Giết người. Năm sau tại phiên phúc thẩm, Hội đồng xét xử xử phạt Ngọc 15 năm tù và Hùng 20 năm tù .
Trung tướng Trần Văn Độ nói rằng : Như thế là nghiêm minh, không bỏ lọt tội phạm và hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội của những bị cáo gây ra .

Bản lĩnh của người Thẩm phán

Để xét xử nghiêm minh, Thẩm phán phải am hiểu pháp luật nhưng vận dụng một cách linh động, không máy móc và có bản lĩnh, dám quyết định hành động theo lương tâm của mình. Ông kể : Có vụ án đánh bạc với số tiền 7 triệu đồng, Thẩm phán bày tỏ do dự, những bị cáo phạm tội lần đầu, số tiền đánh bạc không lớn, nếu phạt tù thì ái ngại, mà không phạt tù thì sợ dư luận. Chánh án Trần Văn Độ nói : Luật có đủ chế tài, với vi phạm nhẹ thì hoàn toàn có thể xử phạt hành chính, sao nhất thiết phải phạt tù ? ! Vậy là bốn cán bộ đó được xử phạt hành chính, họ trở lại công tác làm việc rất tốt, họ nói rằng sẽ “ quyết tâm sửa sai và phấn đấu, không khi nào đụng vào bài bạc nữa, vì như thế là vô ơn với Chánh án Trần Văn Độ, với Tòa quân sự chiến lược ” .
Hồi còn làm Thẩm phán, khi xử phúc thẩm vụ án có ba bị cáo cùng bị cấp xét xử sơ thẩm xử phạt 7 năm tù, ông Trần Văn Độ giảm xuống 3 năm và cho hưởng án treo vì họ đã khắc phục 100 % số tiền thất thoát và 1 số ít nguyên do khác. Đi xử về đến cơ quan, chưa đặt balo xuống đã thấy Chánh án Nguyễn Huân cho gọi lên. Chánh án hỏi : Cậu xử thế nào mà người chưa về đến nơi đơn tố cáo đã đến rồi. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng vừa gọi … Thế là ông và Chánh án cùng sang Bộ Quốc phòng. Nghe ông trình diễn về vụ án và nguyên do vì sao xử như vậy, Bộ trưởng vỗ tay xuống bàn rất sảng khoái : Xử như vậy mới là xử chứ ! Chánh án Tòa án quân sự chiến lược Trung ương Nguyễn Huân cũng thở phào nhẹ nhõm .
Có vụ án một trưởng bản ở miền núi phía Bắc, có bố và ông đều là liệt sĩ, anh ta bị truy tố về tội tham ô gia tài. Trong 10 năm làm trưởng bản, anh ta tham ô 22 triệu đồng, bản án xét xử sơ thẩm xử phạt 3 năm tù cho hưởng án treo. Bản án bị kháng nghị với quan điểm án tham nhũng không cho hưởng án treo, phải hủy án để xử án giam. Là thành viên Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Trung tướng Trần Văn Độ tha thiết thuyết phục những thành viên rằng bản án xử như thế là tương thích, không nên phạt tù giam vì số tiền tham ô không lớn, tính ra mỗi năm có 2,2 triệu đồng. Ông còn nói thêm : Xử phạt giam thì sau này mình mặt mũi nào trông thấy ông và bố bị cáo … Nhờ quan điểm tận tâm của ông nên nhiều người ưng ý và người có thẩm quyền đã rút kháng nghị .

Nhà làm luật có nhiều ý kiến được tiếp thu

Ông Trần Văn Độ là Đại biểu Quốc khóa XII và XIII, từ năm 2007 đến năm năm nay. Trên forum Quốc hội ông đã góp phần nhiều quan điểm tận tâm, có tính thực tiễn và dựa trên những điều tra và nghiên cứu thâm thúy. Vì vậy nhiều quan điểm mới mẻ và lạ mắt của ông từ lạ lẫm dần trở nên quen thuộc và được ghi nhận trong những luật đạo, bộ luật được trải qua và phát hành .
Ông là một trong những người tiên phong nói đến tranh tụng tại Tòa án khi kiến thiết xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự, ông cho rằng : Trong xét xử, phiên tòa xét xử là tiến trình có vai trò đặc biệt quan trọng quan trọng và Tòa án ra phán quyết trên cơ sở tác dụng tranh tụng tại phiên tòa xét xử là bảo vệ quan trọng cho việc xác lập thực sự khách quan của vụ án. Với vai trò cực kỳ quan trọng như vậy, việc nâng cao chất lượng phiên tòa xét xử luôn luôn là một nhu yếu, một yên cầu cấp thiết khách quan. Sau đó, pháp luật về tranh tụng đã được đưa vào Bộ luật tố tụng hình sự năm năm ngoái .
Trung tướng Trần Độ đưa ra quan điểm về hình phạt, về giảm hình phạt tử hình khi bàn luận dự thảo Bộ luật hình sự, ông đặt yếu tố : Tại sao phải giảm hình phạt tử hình, pháp luật tử hình có công dụng răn đe hay không ? Tôi thấy hình phạt nặng nề không xử lý được yếu tố. Chúng ta phải xử lý nguyên do xã hội là hầu hết. Đó là thiên nhiên và môi trường xã hội, chủ trương kinh tế tài chính – xã hội, công ăn việc làm, đời sống, quản trị xã hội, giáo dục … Quan điểm của tôi là chỉ với những tội phạm đặc biệt quan trọng nghiêm trọng mới vận dụng hình phạt tử hình. Chỉ nên giữ lại khoảng chừng 10 tội danh có hình phạt tử hình. Đối với những tội phạm về kinh tế tài chính thì không nên vận dụng hình phạt tử hình. Vì tử hình là người phạm tội không có năng lực giáo dục được nữa, trong khi với những tội về kinh tế tài chính thì tất cả chúng ta đặt nặng yếu tố khắc phục hậu quả hơn là hình phạt tước đi mạng sống. Nếu tử hình mà không thu lại được gia tài thất thoát thì cũng không có ý nghĩa .
Trung tướng Trần Văn Độ cũng nêu lên những giải pháp ngăn ngừa oan sai, chống bức cung, nhục hình. Ông nói : Trong 1 số ít vụ án oan sai hình sự thời hạn gần đây cho thấy, khi ra trước tòa, những đối tượng người dùng đều khai rằng, họ bị cơ quan tìm hiểu bức cung, dùng nhục hình nên “ buộc phải nhận tội ”, có đối tượng người tiêu dùng còn giãi bày “ nhận tội để được sống và có thời cơ kêu oan ”. Để khắc phục được thực trạng đó, tăng cường nguyên tắc trọng chứng hơn trọng cung trong hoạt động giải trí tìm hiểu, bổ trợ cho bị can quyền lạng lẽ là điều thiết yếu .
Quyền yên lặng không phải là “ không nói gì ” mà là nghi phạm có quyền không khai báo để buộc tội mình ; có quyền có luật sư để tương hỗ pháp lý nói chung, tương hỗ khi khai báo nói riêng ; nếu cơ quan tìm hiểu lấy lời khai của nghi phạm nhưng không cung ứng hai quyền trên đây thì lời khai của nghi phạm không được coi là chứng cứ trong quy trình xử lý vụ án. Ông khẳng định chắc chắn : “ Kể cả khi phải đương đầu với rủi ro tiềm ẩn ngày càng tăng số vụ phạm tội, việc pháp luật quyền yên lặng để tránh làm oan người vô tội vẫn là thiết yếu ! ” .
Ông san sẻ với báo chí truyền thông : Tôi từng thao tác với một vị thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Vị thẩm phán này san sẻ : “ Ở nước Mỹ, có bệnh nhân chết mà không có bác sĩ nhưng không có người nào phải vào tù mà không có sự giúp sức của luật sư ”. Ở vương quốc này, quyền im re đã được lao lý từ rất lâu, sự tham gia của luật sư chính là một bộc lộ đơn cử của việc thực thi quyền lạng lẽ của bị can. Nước Mỹ cũng sử dụng máy ghi âm, ghi hình trong quy trình hỏi cung. Không thể nói nước Mỹ không có án oan nhưng thực tiễn, ở vương quốc này, án oan chiếm tỉ lệ rất nhỏ …
image002-1642127300.jpg
PGS.TS Trần Văn Độ là một đại biểu Quốc hội đầy nhiệt huyết

Nói về hoạt động giải trí kiến thiết xây dựng pháp luật, Trung tướng Trần Độ san sẻ với tôi một kỷ niệm. Có một vụ án, trong đó bị cáo đầu vụ xách 6 thùng đạn đi bán đồng nát, đang đi thì gặp một đồng đội, thấy bạn xách nặng nên xách hộ 2 thùng đi khoảng chừng 30 m thì đặt xuống rồi đi hướng khác. Khi vụ án bị tìm hiểu, truy tố, người xách hộ 30 m bị truy tố với vai trò đồng phạm giúp sức. Theo Điều 47 về quyết định hành động hình phạt nhẹ hơn lao lý của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì “ Toà án hoàn toàn có thể quyết định hành động một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã lao lý nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ” nên Tòa án cấp xét xử sơ thẩm xử người xách hộ mức án 7 năm tù. Khi xét xử phúc thẩm, Thẩm phán Trần Văn Độ thấy mức án dành cho anh ta quá nặng do pháp luật của luật và vận dụng máy móc. Ông thuyết phục hai thành viên Hội đồng và quyết định hành động sửa hình phạt từ 7 năm tù sang cảnh cáo. Tòa tuyên án, bộ đội vỗ tay vang dội và đồng thanh nói Tòa án công minh .
Hôm sau gặp Chánh án Tòa án tối cao Trịnh Hồng Dương, ông Độ nói : Hôm qua em xử vụ án nhưng vận dụng trái lao lý của Điều 47, anh giải quyết và xử lý thế nào em cũng chịu. Nghe kể lại vụ án và quyết định hành động cảnh cáo, ông Dương phẩy tay và nói : Xử thế là đúng .
Khi bàn về dự thảo Bộ luật Hình sự sửa đổi, ông Độ đề xuất sửa Điều 47 nhưng nhiều quan điểm không đống ý, cho rằng sửa như vậy tạo ra khoảng trống tùy nghi quá rộng cho Thẩm phán dễ dẫn đến xấu đi, ông Độ kể lại vụ án trên đây, ông đã không vận dụng Điều 47 để có một phán quyết thấu tình đạt lý. Qua ví dụ này, những đại biểu đống ý ngay và khoản 2 Điều 54 BLHS năm năm ngoái đã lao lý : “ Tòa án hoàn toàn có thể quyết định hành động một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được vận dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật so với người phạm tội lần đầu, là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể ” .

Ông cũng là người khi bàn về dự thảo Luật Thi hành án hình sự đưa ra quan điểm người bị phạt tù vẫn được hưởng bảo hiểm xã hội, rất nhiều ý kiến phản đối nhưng sau đó với phân tích có lý có tình của ông, vấn đề đó đã được ghi nhận trong luật.

* *
Ngày nay, dù đã nghỉ hưu, PGS.TS Trần Văn Độ vẫn tích cực hoạt động giải trí trong nghành điều tra và nghiên cứu và huấn luyện và đào tạo, với những bài giảng, những tham luận có hàm lượng khoa học và thực tiễn cao. Những quan điểm nhân văn, tôn vinh quyền con người của ông như những hạt giống tốt đẹp vẫn liên tục được gieo trồng với những thế hệ học trò và lan tỏa trong hội đồng qua những bài báo, những forum mà ông san sẻ …

Ghi chép của Nguyễn Phan Khiêm
 

Source: https://vvc.vn
Category: Pháp luật

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay