James Watt (19 tháng 1 năm 1736 – 25 tháng 8 năm 1819) là nhà phát minh và là một kỹ sư người Scotland đã có những cải tiến cho máy hơi nước mà nhờ đó đã làm nền tảng cho cuộc Cách mạng công nghiệp. Ông đưa ra khái niệm mã lực[4] và đơn vị SI của năng lượng watt được đặt theo tên ông.
Những năm tháng đầu đời[sửa|sửa mã nguồn
]
Một bức tượng tại Đại học James Watt đánh dấu nơi sinh ra ông
James Watt sinh ngày 19 tháng 1 năm 1736 tại Greenock, Renfrewshire, một cảng biển của Firth of Clyde.[5] Cha ông là một thợ đóng tàu, chủ tàu và là một nhà thầu khoán,[6] còn mẹ ông – bà Agnes Muirhead thì xuất thân từ một gia đình danh giá và có học vấn đến nơi đến chốn. Cả hai đều là tín đồ của Giáo hội Trưởng lão (Presbyterian).[7] Ông nội Watt, Thomas Watt, là một thầy giáo dạy toán và baillie cho Baron of Cartsburn.[8] Thay vì theo tôn giáo của cha mẹ, thì ông trở thành một tín đồ tự nhiên thần giáo?.[3][9]
Watt đi học không tiếp tục và thay vào đó là được mẹ dạy tại nhà, [ 10 ] nhưng sau đó ông theo học trường Greenock Grammar. Ông tỏ ra rất khéo tay và có năng khiếu sở trường về môn toán học trong lúc lại ớn môn tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp cổ và ông miệt mài với truyền thuyết thần thoại Scotland [ 11 ] .
Khi ông 18 tuổi, mẹ ông qua đời và sức khỏe cha ông bắt đầu suy sụp. Watt đi London để học ngành thiết bị đo lường (measuring instrument) trong 1 năm, sau đó trở lại Scotland, đến Glasgow, dự tính lập một cơ sở kinh doanh sản xuất thiết bị đo lường. Tuy nhiên, vì ông không trải qua ít nhất 7 năm học việc Cơ quan quản lý thợ thủ công của Glasgow (Glasgow Guild of Hammermen) không cấp phép cho ông[12] dù lúc đó chưa có thợ chế tạo dụng cụ cơ khí nào ở Scotland.[13]
Watt được những giáo sư của Đại học Glasgow cứu khỏi trường hợp bế tắc này khi họ đã cho ông một thời cơ mở xưởng nhỏ trong trường này. Xưởng này được lập năm 1757 và là một trong những giáo sư của trường, là nhà vật lý và cũng là nhà hóa học Joseph Black trở thành bạn và người thầy của Watt. [ 14 ]
Năm 1767, Watt cưới cháu Joseph – Biller Miller và có sáu con với nhau. Miller mất trong khi sinh năm 1772. Năm 1777 ông kết hôn với Ann MacGregor, con cháu của nhà nhuộm Glasgow, và có hai người con : Gregory ( 1777 – 1804 ) là một nhà địa chất học và khoáng vật học, [ 15 ] và Janet ( 1779 – 1794 ). Ann mất năm 1832. Trong thời hạn 1777 và 1790 ông sống tại Regent Place, Birmingham [ 16 ]
Những thí nghiệm tiên phong với hơi nước
[
sửa
|
sửa mã nguồn
]
Năm 1759 bạn của Watt, John Robison, lôi kéo sự chú ý quan tâm của ông đến việc sử dụng hơi nước làm nguồn động lực. [ 17 ] Thiết kế động cơ Newcomen, được sử dụng gần 50 năm trong việc bơm nước từ những mỏ, phần đông không biến hóa từ bản tiên phong. Watt mở màn thí nghiệm với hơi nước mặc dầu ông chưa khi nào thấy động cơ hơi nước hoạt động giải trí. Ông đã nỗ lực thiết kế xây dựng một quy mô. Nó không làm việc tốt, nhưng ông vẫn liên tục thí nghiệm và mở màn đọc toàn bộ mọi thứ mà ông ta hoàn toàn có thể tìm hiểu và khám phá về chủ đề này. Ông đã nhận ra tầm quan trọng của nhiệt ẩn trong việc tìm hiểu và khám phá động cơ, mà ông không biết rằng bạn ông Joseph Black đã phát hiện ra vài năm trước đó. Sự hiểu biết về động cơ hơi nước ở trong thực trạng rất là thô sơ, so với khoa học về nhiệt động lực học không được diễn ra sau 100 năm nữa hoặc lâu hơn .
Ý tưởng và sự nghiệp
[
sửa
|
sửa mã nguồn
]
Ý tưởng muốn tạo ra một chiếc máy hơi nước đến với Watt từ khi còn nhỏ, và ông luôn thôi thúc mình làm được điều đó, cho đến một nhóm đã phát hiện hơi nước Newcomen ( 1705 ) tuy được dùng thoáng rộng nhưng nó có rất nhiều điểm cần được nâng cấp cải tiến. Vì vậy nó trở thành động lực để Watt phải tạo ra một máy hơi nước triển khai xong hơn .
Năm 1763 – 1764, tại Trường Đại học Glasgow, Watt khởi đầu đặc biệt quan trọng quan tâm tới máy hơi nước. Watt xác lập việc nghiên cứu và điều tra nguyên tắc và cấu trúc của máy hơi nước là phương hướng hầu hết của mình. Chính vì điều này mà Watt đã mất ăn mất ngủ
Vào một buổi sáng nọ, Watt đi bách bộ ngoài sân golf, mặt trời rọi thẳng vào mặt ông. Bỗng nhiên một đám mây đen che khuất mặt trời, trong phút chốc bầu trời như tối lại, một trận gió thổi qua, mặt đất như xanh hơn,không gian như rộng hơn, cảm thấy dễ chịu lạ thường. Ông nhìn lên trời cao, nghĩ lại đám mây đen che kín mặt trời vừa rồi, một ý tưởng mới xuất hiện trong đầu ông:Thiết kế bộ ngưng tụ hơi nước, làm cho hơi nước trực tiếp trở lại trạng thái nước ngay từ ngoài xi-lanh, như vậy chẳng phải xi-lanh có thể duy trì được nhiệt độ tương đối cao sao?“
Để chế tạo được máy hơi nước kiểu mới, Watt và các trợ lý của ông làm miệt mài không quản ngày đêm nhưng kết quả chưa giành được thành công, hơn nữa còn nợ nần chồng chất, cuộc sống hết sức khó khăn, có lúc thậm chí không còn tiền để ăn. Nhưng Watt không nản chí, ông càng nỗ lực hơn, cuối cùng năm 1765 ông đã chế tạo thành công một chiếc máy hơi nước
Loại máy hơi nước này giảm được 3-4 lượng than tiêu thụ so với máy hơi nước Newcomen mà hiệu suất nâng cao lên rất nhiều. Thành công lần này là sự cổ vũ lớn so với Watt, ông vẫn muốn trực tiếp nâng cấp cải tiến một bước nữa để giảm lượng tiêu tốn than xuống, hiệu suất càng cao hơn
Năm 1782, ông cho sinh ra chiếc máy hơi nước mới như ông đã tâm lý : Máy tiêu tốn than ít, hiệu suất thao tác cao. Thành công khi phát minh ra loại máy hơi nước này đã làm cho máy hơi nước Newcomen trở nên lỗi thời không còn chỗ đứng
Máy hơi nước do Watt phát minh nhanh chóng được sử dụng rộng rãi. Tàu thuyền, tàu hỏa dùng máy hơi nước đua nhau ra đời, công nghiệp toàn thế giới nhanh chóng bước vào thời đại máy hơi nước“
Tháng 6 năm 1775, giữa Boulton và Watt đã ký kết một hợp đồng có giá trị 25 năm, xây dựng công ty Boulton-Watt chuyên sản xuất và tiêu thụ loại máy hơi nước mới. Đây chính là tiền đề để cho Watt phát minh sáng tạo ra những cỗ máy hơi nước ngày càng tân tiến hơn. Trong 25 năm sau đó, công ty của Watt và Boulton đã sản xuất một số lượng lớn máy hơi nước cung ứng cho thị trường
Năm 1781, Watt còn phát minh ra một bộ phận bánh răng để giúp máy hơi nước hoạt động xoay tròn làm cho máy hơi nước lan rộng ra khoanh vùng phạm vi sử dụng. Ông còn phát minh ra bộ phận ly tâm kiểm soát và điều chỉnh vận tốc, trải qua đó máy hơi nước hoàn toàn có thể tự động hóa khống chế. Năm 1790, ông đã phát minh ra đồng hồ đeo tay áp lực đè nén, đồng hồ đeo tay thông tư, van tiết lưu và nhiều nâng cấp cải tiến có giá trị khác
Năm 1782, cỗ máy hơi nước chuyển động song hướng do Watt nghiên cứu và chế tạo đã ra đời và được cấp bằng sáng chế độc quyền. Năm 1784, loại máy hơi nước nằm cũng được xác nhận quyền sáng chế. Máy hơi nước ngày càng có tính ứng dụng cao và dược sử dụng rộng rãi, nó có tên gọi là máy hơi nước vạn năng“
4 năm sau, Watt phát minh ra bộ phận ly tâm điều chỉnh tốc độ và bộ phận điều tiết hơi. Năm 1790, Watt chế tạo thành công bộ phận biểu thị công năng của xi-lanh đầu tiên. Lúc này thì Watt đã hoàn thành toàn bộ quá trình phát minh ra máy hơi nước của mình. Đây là một bước đại nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất của loài người. Đây có thể được gọi là bản tuyên ngôn của nhân loại đã bắt đầu tiến vào Thời đại máy hơi nước
Những góp phần của máy hơi nước trong xã hội
[
sửa
|
sửa mã nguồn
]
Từ khi máy hơi nước Open đã có một công dụng to lớn trong cuộc cách mạng công nghiệp. Trước khi có máy hơi nước, mặc dầu một số ít người dân đã biết sử dụng sức gió và sức nước nhưng động lực hầu hết vẫn là công sức của con người của con người. Từ khi có máy hơi nước thì loài người đã thoát ra khỏi sự hạn chế đóNgoài việc dùng làm nguồn nguồn năng lượng cho những công xưởng, máy hơi nước còn được ứng dụng trong giao thông vận tải vận tải đường bộ. Sự ứng dụng thoáng rộng máy hơi nước đã ảnh hưởng tác động đến cuộc cách mạng phương tiện đi lại giao thông vận tải ở nước Anh. Năm 1814, kiến trúc sư người Anh George Stephenson chế tạo thành công xuất sắc xe lửa chạy bằng hơi nước. Stephen đã được suy tôn là ” Cha đẻ của đầu máy xe lửa “Sự nâng cấp cải tiến giao thông vận tải đường thủy là đóng những chiếc tàu hoàn toàn có thể lắp được máy hơi nước làm động lực. Ngày 19 tháng 8 năm 1807, một nhà phát minh người Mỹ là Fulton đã phong cách thiết kế một chiếc tàu chờ khách chạy bằng hơi nước chạy thử thành công xuất sắc trên sông Hudson, đồng thời đã mở ra những chuyến chạy định kỳ từ Thành Phố New York đến Albania