Kết thúc Năm Đời Sống Thánh Hiến 2.02.2016 nhưng toàn bộ tu sĩ chỉ mới khởi đầu “ nhà tập ” sống thánh hiến .Câu chuyện chứng từ“ Vậy mà đã ba mươi năm nay tôi ở trong cộng đoàn Nữ Tử Chúa Giêsu ! Trong siêu thị nhà hàng nơi tôi thao tác, những đồng nghiệp biết … đời sống của tôi là đời sống mang dấu ấn của Chúa : không có chồng, không có bạn trai, không có con … không có truyền hình, không máy vi tính, không có cả điện thoại thông minh cầm tay. Còn nghỉ hè ? không đến những nơi sang chảnh, nhưng tôi đi vài ngày ở nơi vắng vẻ, trên núi, một mình với quyển Thánh Kinh ! Dù vậy, điều này không có nghĩa là tôi có một đời sống khắc khổ nhưng đúng hơn là tôi đi tìm điều thiết yếu, một niềm vui đích thực. Đúng, đời sống của tôi mang dấu ấn của Chúa. Từ khi nào ? “ Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi ; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi … ”
Tôi còn nhớ… khi tôi còn chưa đến trường, tôi chơi trong xưởng mộc của cha tôi. Có một nụ cười… Nụ cười của một nữ tu sáng lên, in dấu trong lòng đứa trẻ, là tôi. Từ đó, ước muốn của tôi là được giống như dì: “Khi lớn lên, tôi sẽ là một “nữ tu!” Dĩ nhiên lúc đó, tôi không biết đời sống thánh hiến là đời sống như thế nào. Tôi không biết thế nào là một “nữ tu”. Nhưng trực giác cho tôi biết, người đàn bà này hạnh phúc, tôi cũng muốn được hạnh phúc như vậy! Vài năm sau, tôi có một cuộc gặp gỡ mới. Một cuộc gặp gỡ quyết định với Chúa Giêsu trên thập giá: Ngài đã yêu tôi đến mức như thế nào! Chúa bị sỉ nhục: một tình yêu được trao ban, một tình yêu không áp đặt. Tình yêu chờ câu trả lời. Và tôi sẽ trả lời như thế nào đây? Tận đáy lòng tôi có lời mời gọi: “Cho đi tất cả, cho cả giấc mơ có chồng, có con…”. Đấu tranh… Từ chối… Bỏ trốn…
Cho đến ngày tôi hiểu, niềm hạnh phúc của tôi chỉ hoàn toàn có thể khởi đầu bằng chữ VÂNG … Một chữ “ vâng ” vừa mới thì thầm thì đã là một nguồn vui tuôn trào … ” [ 1 ]“ Con có yêu quý Thầy không ? ” ( Ga 21,15 )“ Hội Thánh tăng trưởng không bởi chiêu dụ nhưng bởi sức lôi cuốn ”Ngày nay để nói với con người thời đại, nhất là người trẻ, sao cho thuyết phục về đời dâng hiến, Hội Thánh không hề chỉ nêu lên một nguyên do “ duy lợi ” : đi tu thì “ được ” cái này, “ có ” cái kia, kể cả để “ được rỗi linh hồn ”. Như thế là không đủ so với con người thời “ hậu-hiện-đại ” này vốn sống theo xu thế gật đầu đa nguyên, chịu tác động ảnh hưởng của thuyết duy tương đối, và nhất là rất khát khao “ cái đẹp ”. Khuôn mặt an vui, rạng rỡ, tràn ngập sức sống của một người sống đời tận hiến tỏ lộ kinh nghiệm tay nghề gặp gỡ một Ai đó vốn là nguồn niềm hạnh phúc, tình yêu, sự sống sung mãn, rất lặng lẽ lôi cuốn. “ Ở đâu có những người thánh hiến, ở đó luôn có niềm vui ” ( ĐGH Phanxicô ). Có một cái gì đó tuyệt diệu như ân sủng xảy ra trong con người tận hiến ấy. Chúng ta nhớ Simone Weil [ 2 ] nói : “ Cái Đẹp là mồi dẫn, bẫy dụ Thần Khí hay dùng để bắt chụp những tâm hồn ” [ 3 ]. Độc thân dâng hiến là sự mê hoặc của một đời sống vén mở ra những chân trời giật mình của niềm vui thích, vừa khác cũng vừa hứa hẹn cho “ một đời sống dồi dào hơn, kinh khủng hơn ” [ 4 ]. Con người thời đại ngày hôm nay thường nghĩ chân lý thuyết phục và gắn liền với cái đẹp và sự tinh xảo êm ả dịu dàng. Bởi thế, không ai gắn bó với một ý nghĩa tối hậu nếu không do được lôi cuốn bởi vẻ đẹp cảm nhận được và hoàn toàn có thể chiêm ngưỡng và thưởng thức trước được như thế nào đó của thực tại ấy, ngay lúc này và tại đây ( hic et nunc ), qua thân xác với giác quan và tri giác của người nam hay người nữ này .Nét xuân tươi muôn đời biểu lộ trên nét mặt và bản thân người tận hiến, không riêng gì có ở nơi tính cách năng động của người tu sĩ trẻ tuổi, nhưng cách rất đặc biệt quan trọng, còn có ở nơi người tu sĩ cao niên xuyên qua những nếp da nhăn nheo rạng ngời nét nhân hậu, tính cách khôn ngoan, và sự thông cảm của kẻ đã thưởng thức thâm thúy .
Nét đẹp của họ thể hiện qua “đời độc thân” tự nguyện không phải ở chỗ từ chối sinh con: họ không “hiếm muộn” (sterile). Trái lại, “đời độc thân” của họ hấp dẫn vì tràn đầy sức sống phong nhiêu (fertility). Nét đẹp tỏa ra từ tâm hồn khiết tịnh muốn chia sẻ, dâng hiến của họ trước hết, chứ không phải bởi họ từ chối tính dục nhân bản của mình để ở đơn thân. Họ tuyệt vời vì nhờ ơn Chúa, dù thi thoảng có thất bại, họ có thể điều hướng các dòng xung năng, cảm xúc, ý nghĩ tự nhiên đi vào kênh yêu thương mà không muốn chiếm hữu.
Nét đẹp của họ biểu lộ qua “ đời nghèo khó ” không phải trước hết vì họ từ khước không có của cải hay gia tài gì, mà là vì họ có được sự tự do nội tâm đích thật của kẻ không bị xiềng xích bởi chiếm hữu nhiều của cải vật chất cũng như ý thức : họ có mà như không có. Tất cả những gì họ có, của cải vật chất và cả những kĩ năng hay năng lực nghề nghiệp riêng tư, được họ như nhà quản lý tài ba của Thiên Chúa quy hướng về cùng đích sau cuối : san sẻ huynh đệ cho con người ( ưu tiên cho người nghèo ) được sống và sống dồi dào, tức là cho vinh quang Chúa ( Irênê ). Nét mê hoặc của họ biểu lộ ra qua con người “ hành khất ” thong dong, an nhiên, tự tại vì cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa .Nét đẹp của họ biểu lộ qua “ sống vâng phục ” trước hết không bởi sự phục tùng mù quáng, tuyệt đối ở một bề trên, nhưng như một trợ giúp phân định, tìm kiếm thánh ý Chúa qua người trung gian đại diện thay mặt hợp pháp, và lựa chọn tự do của lương tâm cá thể. Họ đẹp vì là một con người vẫn tự do đi trong an bình giữa những ràng buộc ( luật Chúa, luật Hội Thánh, luật dòng, … ) vốn khi nào cũng có đó của mọi phận người .Họ đẹp rực rỡ tỏa nắng vì mỗi ngày mỗi yêu mãnh liệt hơn, và học cho đi tổng thể, xuyên qua nước mắt và tiếng cười, góp sức cho cuộc sống sự sống qua tập chết đi mỗi ngày, vì trong họ có Đức Lang Quân – Đấng đã cho họ toàn bộ chỉ vì yêu .– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –[ 1 ] Yêu là cho đi toàn bộ, từ tiếng Pháp “ Aimer, c’est tout donner ” đã được dịch trong 15 thứ tiếng, bản dịch Việt ngữ do Marta An Nguyễn, Nxb Tôn giáo năm ngoái .
[2] Simone Weil (sinh 3.02.1909; chết 24.08.1943), là triết gia người Pháp, theo khuynh hướng thần bí Kitô giáo và là nhà hoạt động chính trị.
[ 3 ] SIMONE WEIL, in E. RONCHI, Tu sei bellezza, Paoline, Milano 2008, 73 .[ 4 ] Ibid., 73 .( Nguồn : WHĐ )