Đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay (tiếng Tây Ban Nha: Selección de fútbol de Uruguay) là đội tuyển bóng đá do Hiệp hội bóng đá Uruguay quản lý và đại diện cho Uruguay, quốc gia ít dân nhất trong nhóm có đội tuyển từng đoạt cúp thế giới.
Uruguay là đội bóng giàu truyền thống cuội nguồn và có thành tích ở môn bóng đá nam thuộc tốp đầu khu vực Nam Mỹ bên cạnh Brasil và Argentina, những đối thủ cạnh tranh láng giềng đều là bại tướng của Uruguay ở chung kết World Cup trong đó gồm có kỳ World Cup tiên phong năm 1930 do chính Uruguay chủ trì. Uruguay có số lần đăng quang ngôi vô địch Nam Mỹ nhiều nhất với 15 lần. Đội cũng có 1 lần vô địch Pan American Games là vào năm 1983. Uruguay cũng có 2 lần vô địch World Cup ( 1930 và 1950 ) và 2 lần vô địch Olympic ( 1924 và 1928 ) .
- Vô địch: 1930; 1950
- Vô địch (15): 1916; 1917; 1920; 1923; 1924; 1926; 1935; 1942; 1956; 1959; 1967; 1983; 1987; 1995; 2011
- Á quân (6): 1919; 1927; 1939; 1941; 1989; 1999
- Hạng ba (9): 1921; 1922; 1929; 1937; 1947; 1953; 1957; 1975; 2004
Logo trên áo đấu của đội tuyển vương quốc có 4 sao mặc dầu Uruguay chỉ mới vô địch 2 kỳ World Cup. Hai trong số đó kỷ niệm hai lần vô địch World Cup và hai còn lại thì để kỷ niệm hai lần giành huy chương vàng môn bóng đá Olympic những năm 1920 thời gian khi mà FIFA vẫn công nhận những giải bóng đá ở Olympic là giải vô địch quốc tế. [ 3 ]
Những năm 1900, Uruguay sử dụng các trang phục áo đấu khác nhau. Chiếc áo đấu đầu tiên đội mặc lấy từ câu lạc bộ Albion trong trận đấu đầu tiên của mình với Argentina năm 1901.[4]
Năm 1910, câu lạc bộ River Plate đánh bại Alumni của Argentina 2 – 1. River Plate mặc phục trang phụ cho trận đấu đó, là áo đấu màu xanh nhạt do áo đấu sân nhà của họ trùng màu với áo đấu của Alumni. [ 5 ] Một người tên Ricardo LeBas đề xuất kiến nghị cho tuyển vương quốc của Uruguay mặc áo đấu xanh nhạt để ghi nhớ thắng lợi lịch sử dân tộc của River Plate. Đề xuất được quản trị hiệp hội bóng đá Uruguay Héctor Gómez chấp thuận đồng ý. [ 6 ] Bộ áo đấu màu xanh nhạt khởi đầu được sử dụng từ trận đấu đội tuyển gặp và thắng đối thủ cạnh tranh Argentina 3 – 1 ngày 15 tháng 8 năm 1910. [ 7 ]Bộ áo đấu màu đỏ trước đó được sử dụng ở một số ít chuyến du đấu được dùng lại cho kỳ Copa América 1935. Chúng không được mặc lại ( ngoại trừ trận gặp Colombia ở World Cup 1962 [ 8 ] ) cho tới năm 1991 khi chính thức trở thành phục trang tranh tài trên sân khách. [ 9 ]
- Chú thích
Đánh bại Argentina với tỷ số 4-2 trong chung kết World Cup 1930, theo nhìn nhận của một số ít nhà báo đương thời, Uruguay vận dụng lối chơi tích hợp tuyệt đối giữa tiến công và phòng ngự trái ngược với lối chơi quá đậm chất cá thể của những cầu thủ Argentina biến họ thành bại tướng. [ 13 ]Theo một bài viết, dưới thời Oscar Tabárez, Uruguay tôn vinh hàng phòng ngự kỷ luật và sự chắc như đinh và được so sánh giống với những đội bóng Ý, ví như Inter Milan. Máu lửa, chắc như đinh, tinh quái kiểu đường phố và biết cách khai thác sai lầm đáng tiếc của đối thủ cạnh tranh là đặc sản nổi tiếng của những cầu thủ Uruguay. Họ thường chơi với sơ đồ 4-4-2 phòng ngự chặt trung lộ, thu hẹp khoảng trống, áp sát kinh khủng giữa sân và hai biên. Khi tiến công thì phụ thuộc vào vào sự cơ động ranh mãnh của cặp tiền đạo và tận dụng tối đa những trường hợp cố định và thắt chặt. [ 14 ]
“Những thời khắc khó khăn có thể đè bẹp bất kì đội bóng nào khác, nhưng với đội tuyển Uruguay, nó lại khiến chúng tôi thể hiện được sức mạnh và cá tính của mình…xây dựng đội bóng dựa vào nền tảng vững chắc, qua đó hàng công có thể tỏa sáng và mang về những chiến thắng.“
— Diego Lugano, tuyển thủ Uruguay, tiết lộ, đề cập những yếu tố phụ trợ như “tiếng gọi lịch sử” và “niềm đam mê”.[15]
“Khi thấy quân đội nước mình, không người Uruguay nào cảm thấy tổ quốc mình ở đó. Và nhiều phương diện khác nơi đời sống xã hội thì cũng tương tự. Nhưng khi thấy đội bóng, có, họ thấy có Uruguay của mình ở đó. Hay là nói nếu bạn “mua một gói thuật kịch” ý nghĩa quốc gia, sẽ có gì đó hơn một đội bóng xảy đến với nước bạn.“[16]
— Ignacio Pardo, nhà xã hội học, chỉ ra rằng người Uruguay xem đội tuyển như một trong những thế chế đại diện tiêu biểu nhất của quốc gia, biểu tượng quốc gia.
Người Uruguay bằng bóng đá nhìn thấy một bức họa vẽ nên cá tính dũng cảm của một dân tộc.[16] Trường phái bóng đá của Uruguay được biết đến với tính chất mạnh bạo và giàu tính thực dụng chiến thuật.[17] Nhà báo Fabio Salgueiro, từ cổng Terra, cho rằng “ý chí quyết tâm và ham muốn chiếm lĩnh, thắng thế có trong máu của những người Uruguay”.[18] Luis Fernando Veríssimo cho biết: “Người Uruguay sẽ tìm mọi cách, mọi khả năng và nỗ lực hết mình để hạ đối thủ mạnh hơn họ”.[19]
Trước năm 1916, Uruguay chơi tổng số 30 trận thì trong đó 29 trận đều là cạnh tranh đối đầu với Argentina. Năm 1924, đội tuyển Uruguay tới Paris và trở thành đội Nam Mỹ tiên phong góp mặt tại Thế Vận Hội. Tương phản với những đối thủ cạnh tranh châu Âu thời gian đó, Uruguay có lối chơi thiên về bóng ngắn, [ 20 ] thắng toàn bộ những trận, hạ Thụy Sĩ 3 – 0 để giành huy chương vàng .
Giải bóng đá vô địch quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Thành viên tuyển Uruguay đánh bại Argentina chung kết World Cup 1930
Sau lần thứ hai giành huy chương vàng Olympic năm 1928, Uruguay được chọn làm chủ nhà kỳ World Cup đầu tiên năm 1930. Dù giành được ngôi vương của giải đấu, Uruguay không hài lòng với việc chỉ có bốn đội từ châu Âu tham dự và cho rằng mình bị người Âu khinh thường. Họ quyết định tẩy chay World Cup 1934 do Ý làm chủ nhà[21] và World Cup 1938 mà Pháp đăng cai.[22]
Đội hình gặp Brazil trận đấu quyết định ngôi vương World Cup 1950
Uruguay lần nữa vô địch quốc tế vào năm 1950, hạ Brasil và tạo một cơn địa chấn gây sốc cho nhiều cổ động viên chủ nhà. Ở Uruguay, cơ quan chính phủ công bố ngày đó trở thành ngày nghỉ toàn nước. [ 23 ]Kể từ đó tới nay Uruguay không còn thống trị giải đấu cấp quốc tế thêm lần nào nữa và thành tích của đội cũng không không thay đổi. Họ đã không vượt qua được vòng loại 1 số ít kỳ World Cup và có vị trí cao nhất tại vòng chung kết không vượt quá hạng bốn .
Năm
|
Kết quả
|
St
|
T
|
H [24]
|
B
|
Bt
|
Bb
|
1930 |
Vô địch |
4 |
4 |
0 |
0 |
15 |
3
|
1934-1938 |
Không tham dự
|
1950 |
Vô địch |
4 |
3 |
1 |
0 |
15 |
5
|
1954 |
Hạng tư |
5 |
3 |
0 |
2 |
16 |
9
|
1958 |
Không vượt qua vòng loại
|
1962 |
Vòng 1 |
3 |
1 |
0 |
2 |
4 |
6
|
1966 |
Tứ kết |
4 |
1 |
2 |
1 |
2 |
5
|
1970 |
Hạng tư |
6 |
2 |
1 |
3 |
4 |
5
|
1974 |
Vòng 1 |
3 |
0 |
1 |
2 |
1 |
6
|
1978-1982 |
Không vượt qua vòng loại
|
1986 |
Vòng 2 |
4 |
0 |
2 |
2 |
2 |
8
|
1990 |
Vòng 2 |
4 |
1 |
1 |
2 |
2 |
5
|
1994-1998 |
Không vượt qua vòng loại
|
2002 |
Vòng 1 |
3 |
0 |
2 |
1 |
4 |
5
|
2006 |
Không vượt qua vòng loại
|
2010 |
Hạng tư |
7 |
3 |
2 |
2 |
11 |
8
|
2014 |
Vòng 2 |
4 |
2 |
0 |
2 |
4 |
6
|
2018 |
Tứ kết |
5 |
4 |
0 |
1 |
7 |
3
|
2022 |
Vượt qua vòng loại
|
2026 |
Chưa xác định
|
Tổng cộng |
14/22 2 lần: Vô địch |
56 |
24 |
12 |
20 |
87 |
74
|
Cúp Liên đoàn những lục địa[sửa|sửa mã nguồn]
Năm
|
Kết quả
|
St
|
T
|
H [24]
|
B
|
Bt
|
Bb
|
1992-1995 |
Không giành quyền tham dự
|
1997 |
Hạng tư |
5 |
3 |
0 |
2 |
8 |
6
|
1999-2009 |
Không giành quyền tham dự
|
2013 |
Hạng tư |
5 |
2 |
1 |
2 |
14 |
7
|
2017 |
Không giành quyền tham dự
|
Tổng cộng |
2/10 2 lần: Hạng tư |
10 |
5 |
1 |
4 |
22 |
13
|
Cúp bóng đá Nam Mỹ[sửa|sửa mã nguồn]
Năm
|
Kết quả
|
St
|
T
|
H [24]
|
B
|
Bt
|
Bb
|
1916 |
Vô địch |
3 |
2 |
1 |
0 |
6 |
1
|
1917 |
Vô địch |
3 |
3 |
0 |
0 |
9 |
0
|
1919 |
Á quân |
3 |
2 |
1 |
0 |
7 |
4
|
1920 |
Vô địch |
3 |
2 |
1 |
0 |
9 |
2
|
1921 |
Hạng ba |
3 |
1 |
0 |
2 |
3 |
4
|
1922 |
Hạng ba |
4 |
2 |
1 |
1 |
3 |
1
|
1923 |
Vô địch |
3 |
3 |
0 |
0 |
6 |
1
|
1924 |
Vô địch |
3 |
2 |
1 |
0 |
8 |
1
|
1925 |
Bỏ cuộc
|
1926 |
Vô địch |
4 |
4 |
0 |
0 |
17 |
2
|
1927 |
Á quân |
3 |
3 |
0 |
0 |
15 |
4
|
1929 |
Hạng ba |
3 |
1 |
0 |
2 |
4 |
6
|
1935 |
Vô địch |
3 |
3 |
0 |
0 |
6 |
1
|
1937 |
Hạng ba |
5 |
2 |
0 |
3 |
11 |
14
|
1939 |
Á quân |
4 |
3 |
0 |
1 |
13 |
5
|
1941 |
Á quân |
4 |
3 |
0 |
1 |
10 |
1
|
1942 |
Vô địch |
6 |
6 |
0 |
0 |
21 |
2
|
1945 |
Hạng tư |
6 |
3 |
0 |
3 |
14 |
6
|
1946 |
Hạng tư |
5 |
2 |
0 |
3 |
11 |
9
|
1947 |
Hạng ba |
7 |
5 |
0 |
2 |
21 |
8
|
1949 |
Hạng 6 |
7 |
2 |
1 |
4 |
14 |
20
|
1953 |
Hạng ba |
6 |
3 |
1 |
2 |
15 |
6
|
1955 |
Hạng tư |
5 |
2 |
1 |
2 |
12 |
12
|
1956 |
Vô địch |
5 |
4 |
1 |
0 |
9 |
3
|
1957 |
Hạng ba |
6 |
4 |
0 |
2 |
15 |
12
|
1959 |
Hạng 5 |
6 |
2 |
0 |
4 |
15 |
14
|
1959 |
Vô địch |
5 |
4 |
1 |
0 |
9 |
3
|
1963 |
Bỏ cuộc
|
1967 |
Vô địch |
5 |
4 |
1 |
0 |
13 |
2
|
1975 |
Bán kết |
2 |
1 |
0 |
1 |
1 |
3
|
1979 |
Vòng bảng |
4 |
1 |
2 |
1 |
5 |
5
|
1983 |
Vô địch |
8 |
5 |
2 |
1 |
12 |
6
|
1987 |
Vô địch |
2 |
2 |
0 |
0 |
2 |
0
|
1989 |
Á quân |
7 |
4 |
0 |
3 |
11 |
3
|
1991 |
Vòng bảng |
4 |
1 |
3 |
0 |
4 |
3
|
1993 |
Tứ kết |
4 |
1 |
2 |
1 |
5 |
5
|
1995 |
Vô địch |
6 |
4 |
2 |
0 |
11 |
4
|
1997 |
Vòng bảng |
3 |
1 |
0 |
2 |
2 |
2
|
1999 |
Á quân |
6 |
1 |
2 |
3 |
4 |
9
|
2001 |
Hạng tư |
6 |
2 |
2 |
2 |
7 |
7
|
2004 |
Hạng ba |
6 |
3 |
2 |
1 |
12 |
10
|
2007 |
Hạng tư |
6 |
2 |
2 |
2 |
8 |
9
|
2011 |
Vô địch |
6 |
3 |
3 |
0 |
9 |
3
|
2015 |
Tứ kết |
4 |
1 |
1 |
2 |
2 |
3
|
2016 |
Vòng bảng |
3 |
1 |
0 |
2 |
4 |
4
|
2019 |
Tứ kết |
4 |
2 |
2 |
0 |
7 |
2
|
2021 |
Tứ kết |
5 |
2 |
2 |
1 |
4 |
2
|
2024 |
Chưa xác định
|
Tổng cộng |
15 lần: Vô địch |
205 |
113 |
38 |
55 |
410 |
222
|
Thế vận hội Mùa hè[sửa|sửa mã nguồn]
- (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1988)
Năm
|
Kết quả
|
Thứ hạng
|
St
|
T
|
H [24]
|
B
|
Bt
|
Bb
|
1900-1920 |
Không tham dự
|
1924 |
Huy chương vàng |
1st |
5 |
5 |
0 |
0 |
20 |
2
|
1928 |
Huy chương vàng |
1st |
5 |
4 |
1 |
0 |
12 |
5
|
1936 |
Bỏ cuộc
|
1948-1972 |
Không vượt qua vòng loại
|
1976 |
Bỏ cuộc
|
1980-1988 |
Không vượt qua vòng loại
|
Tổng cộng |
2 lần huy chương vàng |
3/19 |
10 |
9 |
1 |
0 |
32 |
7
|
Đại hội Thể thao liên Mỹ[sửa|sửa mã nguồn]
- (Nội dung thi đấu dành cho cấp đội tuyển quốc gia cho đến kỳ Đại hội năm 1995)
Năm
|
Kết quả
|
Thứ hạng
|
St
|
T
|
H [24]
|
B
|
Bt
|
Bb
|
1951-1959 |
Không tham dự
|
1963 |
Hạng tư |
4th |
4 |
1 |
0 |
3 |
4 |
6
|
1967-1971 |
Không tham dự
|
1975 |
Vòng sơ loại |
11th |
2 |
0 |
1 |
1 |
1 |
2
|
1979 |
Không tham dự
|
1983 |
Huy chương vàng |
1st |
4 |
4 |
0 |
0 |
5 |
1
|
1987-1995 |
Không tham dự
|
Tổng cộng |
1 lần huy chương vàng |
3/12 |
10 |
5 |
1 |
4 |
10 |
9
|
Đội hình hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]
Danh sách 26 cầu thủ được triệu tập cho FIFA World Cup 2022.
Số liệu thống kê tính đến ngày 27 tháng 9 năm 2022 sau trận gặp Canada.
Triệu tập gần đây[sửa|sửa mã nguồn]
Kỷ lục cầu thủ[sửa|sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 27 tháng 9 năm 2022.[25]
Diego Godín là cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất với 159 trận.
Thi đấu nhiều nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Luis Suárez là cầu thủ ghi bàn nhiều nhất cho đội tuyển quốc gia với 68 bàn thắng.
Ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]