Lưu Hữu Phước (12 tháng 9 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1989) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là tác giả của những bài hát có tầm ảnh hưởng thời Chiến tranh Việt Nam.
Ông là giáo sư, viện sĩ, nhà lý luận âm nhạc ; nguyên Bộ trưởng Bộ tin tức Văn hóa của nhà nước Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta ; nguyên Đại biểu Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục đào tạo của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Thời trẻ và trong bước đầu của sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]
Lưu Hữu Phước sinh ngày 12 tháng 9 năm 1921 tại Q. Ô Môn, tỉnh Cần Thơ ( nay thuộc thành phố Cần Thơ ). Thuở nhỏ ông được cha cho học đàn kìm, về sau có chơi cả mandolin, guitar và tự học kim chỉ nan âm nhạc. [ 1 ]
Khoảng cuối thập niên 1930, Lưu Hữu Phước lên Sài Gòn học tại trường Petrus Ký.[2] Trong thời gian này, ông kết thân với Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, làm thành bộ 3 Huỳnh – Mai – Lưu, thành lập Câu lạc bộ Học sinh (Scholar Club) ở trường trung học Petrus Ký… là đầu mối hội tụ những học sinh, sinh viên yêu nước. Cũng trong thời gian này, ông sáng tác bài hát “La Marche des Étudiants” vào cuối năm 1939, và cùng Mai Văn Bộ đặt lời tiếng Pháp để làm bài hát chính thức của Câu lạc bộ.
Sau khi đỗ tú tài, Lưu Hữu Phước ra Hà Nội học trường Y – Dược, thuộc Viện Đại học Đông Dương (1940-1944). Thời này, do ảnh hưởng của phong trào Mặt trận Bình dân ở Pháp nên phong trào đấu tranh chính trị của sinh viên Đông Dương rất mạnh mẽ. Lưu Hữu Phước nhanh chóng trở thành một trong những thủ lĩnh của phong trào, và có dịp tiếp xúc với một số thành viên của Việt Minh. Trong những đợt tổ chức các hoạt động về nguồn của sinh viên, Lưu Hữu Phước đã sáng tác được nhiều ca khúc nổi tiếng, như: “Non sông gấm vóc”, “Bạch Đằng Giang”, “Ải Chi Lăng”, “Hát giang trường hận” (sau đổi tên là Hồn tử sĩ), “Hờn sông Gianh”, “Người xưa đâu tá” và “Hội nghị Diên Hồng” nhằm hun đúc tình thần dân tộc cho thanh niên.
Nhân cuộc hành hương về Đền Hùng nhân ngày Giỗ tổ Hùng Vương năm 1942, nhằm mục đích thức tỉnh sinh viên từ bỏ mộng học giỏi đỗ cao để làm quan cho thực dân Pháp, đồng lòng quyết tâm trau dồi ý thức cứu dân, cứu nước, chuẩn bị sẵn sàng tiến lên ” đáp lời sông núi ” khi Tổ quốc cần, Lưu Hữu Phước đã sửa phần lời Việt của bài ” La Marche des Étudiants ” thành bài ” Thanh niên hành khúc “, màn biểu diễn dưới chân núi Nghĩa Lĩnh do một dàn hợp xướng mấy chục người trình diễn [ 3 ] .
Ngày 21 tháng 3 năm 1943, vở ca kịch Tục lụy của ông được trình diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Cái tên Lưu Hữu Phước trở nên nổi tiếng trong giới thanh niên Việt Nam thời bấy giờ[4].
Lưu Hữu Phước còn có những bút danh khác : Huỳnh Minh Siêng [ 5 ], Long Hưng, Anh Lưu, Hồng Chí .Năm 1944, Lưu Hữu Phước được Mặt trận Việt Minh giao trách nhiệm vào Nam tham gia hoạt động cách mạng cùng với lúc nổ ra trào lưu của phần đông sinh viên ba miền Nam – Trung – Bắc rủ nhau bỏ học để trực tiếp tham gia hoạt động giải trí cách mạng. Nhóm Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ và Đặng Ngọc Tốt trong một đêm đã tập trung chuyên sâu soạn ba bài hát : ” Xếp bút nghiên “, ” Mau về Nam ” và ” Gieo ánh sáng ” để kịp thời cổ vũ cho trào lưu này, còn được gọi là trào lưu Xếp bút nghiên, rầm rộ lê dài đến mãi tận ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng với sự sinh ra của bài ca ” Khúc khải hoàn ” của ông [ 6 ] .
Tham gia công tác làm việc văn nghệ[sửa|sửa mã nguồn]
Sau khi Pháp gây hấn ở Nam Bộ, Lưu Hữu Phước tham gia công tác tuyên truyền với chức vụ Giám đốc phòng xuất bản Nam Bộ trong một thời gian ngắn. Tháng 5 năm 1946, Lưu Hữu Phước được điều động ra Hà Nội, nhận nhiệm vụ thành lập Trung ương Nhạc viện (thành lập tháng 9 năm 1946), sau đó ông cùng tập thể Hội Văn hoá Cứu quốc tản cư đi kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc. Ông được giao nhiệm vụ thành lập đội Thiếu nhi tuyên truyền xung phong, sau được đổi tên là Đoàn nhạc kịch Thiếu nhi kháng chiến thuộc Trung ương Nhạc viện. Đoàn đã lần lượt trình diễn một số vở ca kịch do ông sáng tác như Con thỏ ngọc, Diệt sói lang, Phá mưu bù nhìn, Hai chàng lưng gù và Hái hoa dâng Bác (nhân kỷ niệm 60 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, về sau được Thái Ly chuyển soạn thành vở vũ kịch Chúc thọ Bác Hồ vào năm 1960, vở vũ kịch đầu tiên của Việt Nam[7]. Năm 1950, ông được giao nhiệm vụ thành lập Trường Thiếu nhi Nghệ thuật và được cử làm Giám đốc.
Trong cuộc chiến tranh Đông Dương, ông là tác giả của nhiều tác phẩm âm nhạc như ” Ca ngợi Hồ quản trị “, ” Khúc khải hoàn “, ” Đông Nam Á châu đại hợp xướng “, ” Tuổi hai mươi “, ” Thiếu nhi thế giới liên hoan “, ” Nông dân vươn mình “, ” Hăngri Máctanh ( Henri Martin ) “, ” Em yêu chị Rây-mông “, ” Cả cuộc sống về ta ” …Trong cuộc chiến tranh Nước Ta, từ năm 1954 đến 1965, Lưu Hữu Phước tập trung ra Bắc, làm Trưởng ban Nghiên cứu Nhạc-Vũ thuộc Vụ Nghệ thuật, Bộ Văn hoá, sau đó làm Vụ trưởng Vụ Âm nhạc và Múa, ngoài những còn được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Nước Ta, Ban Thư ký Hội Nhạc sĩ Nước Ta [ 8 ]. Ông cũng có công tổ chức triển khai sưu tầm dân ca và đã cho sinh ra khu công trình nghiên cứu và điều tra quan họ. Ông còn góp công thành lập Trường Âm nhạc Nước Ta ( nay là Học viện Âm nhạc Quốc gia Nước Ta ), Trường Múa, Trường Sân khấu Điện ảnh, Nhà hát Giao hưởng Hợp xướng Nhạc Vũ Kịch Nước Ta [ 9 ] .Tháng 2 năm 1965, Lưu Hữu Phước được cử vào Nam, giữ chức quản trị Hội Văn nghệ Giải phóng, sau đó Bộ trưởng Bộ tin tức Văn hóa của nhà nước Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Nước Ta. Trong tiến trình này, ông đã sáng tác những bài hát như ” Dưới cờ Đảng vẻ vang “, ” Tình Bác sáng đời ta “, ” Bài hát Giải phóng quân “, ” Giờ hành vi “, ” Hành khúc giải phóng “, ” Xuống đường “, ” Tiến về Hồ Chí Minh “, đặc biệt quan trọng là ” Giải phóng miền Nam ” – bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Nước Ta .Sau năm 1975, ông quay trở lại làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc ( 1978 – 1989 ), được phong học hàm Giáo sư và Viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Nghệ thuật CHDC Đức, được bầu làm quản trị Hội đồng Âm nhạc Quốc gia, Thành viên Hội đồng Âm nhạc Quốc tế, ngoài những còn là Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Giáo dục đào tạo của Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó quản trị Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Nước Ta. [ 10 ] .Ông mất ngày 8 tháng 6 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh .
Sự nghiệp âm nhạc[sửa|sửa mã nguồn]
Lưu Hữu Phước được xem là một trong những nhạc sĩ đầu đàn, một tài năng lớn của nền âm nhạc Việt Nam hiện đại, đại diện cho phái âm nhạc Nam Bộ trong thời điểm khởi đầu của nền tân nhạc. Ông là một tên tuổi lớn trong nền âm nhạc cách mạng Việt Nam, một danh nhân văn hóa Việt Nam; là một trong những người đầu tiên sử dụng rất thành công thể loại hành khúc – một thể loại từ âm nhạc phương Tây. Ông đã trở thành tác giả của những chính ca xuất sắc, có tầm tư tưởng lớn, giá trị nghệ thuật rất cao và có giá trị lịch sử. Ông là tác giả Quốc ca của cả hai chính thể đối lập nhau là Việt Nam Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Những bài chính ca tiêu biểu của ông gồm:
Ngoài thể chính ca, Lưu Hữu Phước viết ca khúc trữ tình cũng rất thành công. Có lẽ do những yêu cầu của xã hội, của thời cuộc lúc đó mà ông đã phát huy sở trường nhiều ở thể chính ca, ít sáng tác bài ca trữ tình. Lưu Hữu Phước còn sáng tác cho thiếu nhi rất nhiều bài hát có giá trị lớn, nổi tiếng một thời, đến nay vẫn là chuẩn mực cho thể loại ca khúc thiếu nhi: “Thiếu nhi thế giới liên hoan”, “Reo vang bình minh”,…
Danh hiệu, tôn vinh[sửa|sửa mã nguồn]
Với những góp phần của Lưu Hữu Phước vào nền âm nhạc Nước Ta, ông đã được Nhà nước Nước Ta tặng thưởng nhiều huân chương, huy chương, trong đó có Huân chương Độc lập hạng nhất ( 1987 ), phần thưởng Hồ Chí Minh về văn học thẩm mỹ và nghệ thuật đợt 1 ( 1996 )
Các tác phẩm[sửa|sửa mã nguồn]
Các thể loại khác[sửa|sửa mã nguồn]
- Ca cảnh
- Tụy lụy (phổ theo vở kịch của Khái Hưng) (1943)
- Con Thỏ Ngọc
- Diệt sói lang
- Hội nghị Diên hồng
- Ca kịch
- Kịch múa
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]