Ái lực điện tử – Wikipedia tiếng Việt

Trong hóa học, ái lực điện tử là năng lượng được một nguyên tử, trung hoà điện tích và cô lập (ở thể khí), hấp thụ khi có một điện tử được thêm vào tạo thành khí ion có điện tích -1 điện tích nguyên tố. Nó có giá trị âm khi năng lượng được nhả ra.

Đa số những nguyên tố hoá học có ái lực điện tử âm. Điều này nghĩa là chúng không cần nhận nguồn năng lượng để bắt điện tử ; thay vào đó, chúng nhả ra nguồn năng lượng. Nguyên tử càng có nhiều năng lực bắt thêm những điện tử có ái lực điện tử càng âm. Clo là nguyên tố hoá học có ái lực điện tử mạnh nhất ; radon có ái lực điện tử yếu nhất .Mặc dù ái lực điện tử biến hóa khá hỗn loạn trong bảng tuần hoàn, một số ít quy luật vẫn hoàn toàn có thể được phát hiện. Nói chung, phi kim có ái lực điện tử âm hơn sắt kẽm kim loại. Tuy nhiên, những khí hiếm là ngoại lệ, chúng có ái lực điện tử dương .
Bảng tuần hoàn của ái lực điện tử, theo kJ/mol [1]

Ái lực điện tử tuân theo quy tắc bộ tám. Các nguyên tố nhóm 17 (flo, clo, brom, iod, và astatin) có xu hướng bắt điện tử và tạo ra anion có điện tích bằng -1 điện tích nguyên tố. Các khí hiếm trong nhóm 18 đã có đủ bộ tám, và do đó việc thêm một điện tử đòi hỏi năng lượng lớn, tuy nhiên vẫn có thể thực hiện được.

Các nguyên tố nhóm 2, khởi đầu từ beryli và nhóm 12 mở màn từ kẽm cũng có ái lực điện tử với giá trị dương vì chúng có vỏ s hay vỏ d đã điền đầy .

Các nguyên tố trong nhóm 15 có ái lực điện tử thấp và nitơ thậm chí có ái lực điện tử với giá trị dương. Lý do là các vỏ điện tử được điền một nửa cũng khá bền.

Ái lực điện tử có giá trị tăng lên trong cùng một hàng từ trái qua phải (do bán kính các nguyên tử giảm dần, làm gia tăng sức hút từ hạt nhân, và số điện tử trong vỏ ngoài tăng dần, khiến nguyên tử cân bằng bền hơn) trong bảng tuần hoàn và giảm đi khi đi từ trên xuống trong cùng một nhóm (do bán kính các nguyên tử và số điện tử ở vỏ ngoài tăng lên, các điện tử đẩy lẫn nhau, làm giảm mức độ cân bằng của nguyên tử).

Ái lực điện tử không chỉ được định nghĩa cho những nguyên tố hoá học, mà còn vận dụng cho những phân tử. Ví dụ, ái lực điện tử của benzen là dương, còn của naphtalen là gần bằng 0 và của anthracen là dương. Thí nghiệm in silico cho thấy ái lực điện tử của hexacyanobenzen mạnh hơn fulleren [ 2 ] .

  1. ^ C. E. Moore, National Standard Reference Data Series 34, National Bureau of Standards, U.S. Government Printing Office, Washington, DC, 1970 .
  2. ^ Remarkable electron accepting properties of the simplest benzenoid cyanocarbons: hexacyanobenzene, octacyanonaphthalene and decacyanoanthracene Xiuhui Zhang, Qianshu Li, Justin B. Ingels, Andrew C. Simmonett, Steven E. Wheeler, Yaoming Xie, R. Bruce King, Henry F. Schaefer III and F. Albert Cotton 2006, 758 – 760 Xiuhui Zhang, Qianshu Li, Justin B. Ingels, Andrew C. Simmonett, Steven E. Wheeler, Yaoming Xie, R. Bruce King, Henry F. Schaefer III and F. Albert Cotton Chemical Communications, 758 – 760 Abstract

Source: https://vvc.vn
Category : Nhân Ái

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay