Các dạng tiếng Anh thuở sớm, gọi chung là tiếng Anh cổ, phát sinh từ những phương ngữ cổ xưa thuộc nhóm ngôn từ Giécmanh Biển Bắc. Những phương ngữ ấy vốn là tiếng mẹ đẻ của người Anglo-Saxon di cư sang Đảo Anh vào thế kỷ thứ 5, rồi liên tục biến hóa suốt thế kỷ thứ 8 và thứ 9 do tiếp xúc dai dẳng với tiếng Bắc Âu cổ của di dân Viking. Giai đoạn tiếng Anh trung đại mở màn vào cuối thế kỷ 11, ngay sau cuộc xâm lược Anh của người Norman, với những tác động ảnh hưởng đáng kể đến từ những phương ngữ Pháp cổ ( đặc biệt quan trọng là tiếng Norman cổ ) và tiếng Latinh suốt khoảng chừng 300 năm ròng. [ 10 ] Đến cuối thế kỷ 15, tiếng Anh bước vào tiến trình cận đại sau khi trải qua quy trình đổi khác nguyên âm quy mô lớn và xu thế vay mượn từ ngữ tiếng Hy-La thời Phục hưng, đồng thời với sự sinh ra của máy in ép tại Luân Đôn. Thông qua đó mà văn học Anh ngữ bấy giờ đã đạt đến đỉnh điểm, điển hình nổi bật với những chứng tích như bản dịch tiếng Anh của Kinh Thánh đời vua James I và những vở kịch tầm cỡ của đại văn hào William Shakespeare. [ 12 ] [ 13 ]
Ngữ pháp tiếng Anh hiện đại là kết quả của quá trình biến đổi dần dần từ kiểu dependant-marking điển hình của hệ Ấn-Âu, đặc trưng với sự biến đổi hình thái phong phú và trật tự từ tương đối tự do, sang kiểu phân tích, đặc trưng với hình thái ít biến đổi cùng trật tự chủ-động-tân thiếu linh động. Tiếng Anh hiện đại dựa phần lớn vào trợ động từ và trật tự từ để biểu đạt các thì (tense), thức (mood) và thể (aspect) phức tạp, cũng như các cấu trúc bị động, nghi vấn và một số dạng phủ định.
Tiếng Anh hiện đại lan rộng khắp thế giới kể từ thế kỷ 17 nhờ tầm ảnh hưởng toàn cầu của Đế quốc Anh và Hoa Kỳ. Thông qua các loại hình in ấn và phương tiện truyền thông đại chúng của những quốc gia này, vị thế tiếng Anh đã được nâng lên hàng đầu trong diễn ngôn quốc tế, giúp nó trở thành lingua franca tại nhiều khu vực trên thế giới và trong nhiều bối cảnh chuyên môn như khoa học, hàng hải và luật pháp. Tiếng Anh là ngôn ngữ có số lượng người nói đông đảo nhất trên thế giới,[15] và có số lượng người nói bản ngữ nhiều thứ ba trên thế giới, chỉ sau tiếng Trung Quốc chuẩn và tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Anh là ngoại ngữ được nhiều người học nhất và là ngôn ngữ chính thức hoặc đồng chính thức của 59 quốc gia trên thế giới. Hiện nay số người biết nói tiếng Anh như một ngoại ngữ đã áp đảo hơn số người nói tiếng Anh bản ngữ. Tính đến năm 2005, lượng người nói tiếng Anh đã cán mốc xấp xỉ 2 tỷ.[17] Tiếng Anh là bản ngữ đa số tại Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Canada, Úc, New Zealand (xem vùng văn hóa tiếng Anh) và Cộng hòa Ireland. Nó được sử dụng phổ biến ở một số vùng thuộc Caribê, Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á, và Châu Đại Dương. Tiếng Anh là ngôn ngữ đồng chính thức của Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu, cùng nhiều tổ chức quốc tế và khu vực. Ngoài ra nó cũng là ngôn ngữ Giécmanh được sử dụng rộng rãi nhất, với lượng người nói chiếm ít nhất 70% tổng số người nói các ngôn ngữ thuộc nhánh Ấn-Âu này.
Phân loại
Tiếng Anh là một ngôn từ Ấn – Âu, đơn cử hơn là ngôn từ thuộc nhánh Tây của ngữ tộc Giécmanh. Dạng cổ của tiếng Anh – Tiếng Anh cổ – bắt nguồn từ dãy phương ngữ được nói bởi những dân tộc bản địa Giécmanh sinh sống dọc bờ Biển Bắc xứ Frisia ( nay thuộc Hà Lan ). Các phương ngữ Giécmanh ấy đã phát sinh nhóm ngôn từ Anglic trên Đảo Anh, cũng như tiếng Frisia và tiếng Đức Hạ / Saxon Hạ trên lục địa châu Âu. Tiếng Frisia do vậy có quan hệ rất gần với tiếng Anh, và cũng chính vì thế nên giới ngôn ngữ học mới gộp chúng vào nhóm Anh-Frisia. Ngoài ra, tiếng Đức Hạ / Saxon Hạ cũng có quan hệ thân thiện với tiếng Anh, tuy nhiên phân loại gộp ba thứ tiếng trên thành một nhóm duy nhất ( gọi là nhóm Giécmanh Biển Bắc ) hiện còn bị nhiều người phản bác. Tiếng Anh cổ đã dần diễn tiến thành tiếng Anh trung đại, rồi liên tục tăng trưởng thành tiếng Anh đương đại. Đồng thời, những phương ngữ tiếng Anh cổ và tiếng Anh trung đại cũng đã đổi khác thành những ngôn từ mới ; ví dụ điển hình tiếng Scotland, cũng như những ngôn từ đã thất truyền như tiếng Fingal và tiếng Yola ở Ireland .Tiếng Anh – giống như tiếng Iceland và tiếng Faroe, vốn đều là những ngôn từ được sử dụng trên những hòn đảo cô lập và do vậy chúng được cách ly khỏi những tác động ảnh hưởng ngôn từ trên đất liền – đã phân kỳ đáng kể khỏi những nhánh chị em. Không sống sót sự thông hiểu lẫn nhau giữa tiếng Anh với bất kể thứ tiếng Giécmanh lục địa nào, sở dĩ bởi sự độc lạ từ vựng, cú pháp và âm vị. Dù vậy khi xem xét kỹ hơn, tiếng Hà Lan và tiếng Frisia vẫn lưu giữ nhiều nét tương đương với tiếng Anh, đặc biệt quan trọng là nếu ta đem so sánh với những quá trình cổ hơn của tiếng Anh .
Tuy nhiên, không giống tiếng Iceland và tiếng Faroe vốn bị cô lập ở mức độ cao hơn, tiếng Anh vẫn chịu ảnh hưởng từ một số ngôn ngữ đại lục được du nhập vào đảo Anh kèm theo các cuộc xâm lược và di dân trong quá khứ (đặc biệt là tiếng Pháp Norman và tiếng Bắc Âu cổ). Những sự biến ấy đã hằn in vào vốn từ và ngữ pháp tiếng Anh những dấu ấn rất sâu sắc, cũng là ngọn nguồn của các nét tương đồng giữa tiếng Anh hiện đại với một số ngôn ngữ ngoại ngành – song chúng hoàn toàn không có tính thông hiểu lẫn nhau. Dựa vào đó, một số học giả đã đề xuất giả thuyết tiếng Anh trung đại lai căng (Middle English creole hypothesis), theo đó thì họ cho rằng tiếng Anh thực chất là một ngôn ngữ pha trộn (mixed language) hoặc một ngôn ngữ lai căng (creole language) chứ không thuần Giécmanh. Tuy đúng là các định đề của giả thuyết này được thừa nhận rộng rãi, song phần lớn giới chuyên gia ngày nay không hề coi tiếng Anh là ngôn ngữ pha trộn.
Tiếng Anh được phân loại là một ngôn từ Giécmanh vì nó có nhiều điểm thay đổi giống những ngôn từ như tiếng Hà Lan, tiếng Đức và tiếng Thụy Điển. Điều này chứng tỏ những ngôn từ ấy chắc rằng đã phát sinh từ cùng một ngôn từ tổ tiên mà giới ngôn ngữ học gọi là tiếng Giécmanh nguyên thủy. Một số điểm chung đó gồm có : sự phân biệt giữa lớp động từ mạnh và yếu, sự vận dụng động từ khuyết, cũng như tuân theo những luật đổi khác phụ âm từ tiếng Ấn-Âu nguyên thủy là luật Grimm và luật Verner. Tiếng Anh được nhóm với tiếng Frisia bởi lẽ chúng san sẻ nhiều điểm độc lạ, không sống sót ở nhánh nào khác, ví dụ điển hình sự ngạc cứng hóa những âm ngạc mềm của tiếng Giécmanh nguyên thủy .
Lịch sử
Từ tiền ngữ Giécmanh đến tiếng Anh cổ
Phần tựa của sử thi Beowulf tiếng Anh cổ, thủ bút chữ nửa ông-xi-an:
Hƿæt ƿē Gārde / na ingēar dagum þēod cyninga / þrym ge frunon …
Dịch tiếng Anh: “Listen! We of the Spear-Danes from days of yore have heard of the glory of the folk-kings…”
Dịch tiếng Việt: “Nghe đây! Bọn ta, thuộc tộc Spear-Dane từ những ngày cổ xưa, đã nghe nói thanh danh của các vị vua-nhân dân
Dạng cổ nhất của tiếng Anh được gọi là tiếng Anh cổ hay tiếng Anglo-Saxon (k. năm 550–1066). Tiếng Anh cổ phát triển từ một tập hợp các phương ngữ Giécmanh biển Bắc, vốn được nói dọc vùng duyên hải Frisia, Niedersachsen, Jylland, và Nam Thụy Điển bởi nhiều bộ lạc Giécmanh khác nhau như Angle, Saxon, và Jute.[28][29] Bắt đầu từ thế kỷ thứ 4, người Anglo-Saxon di cư sang đảo Anh đồng thời với sự suy vong của chính quyền La Mã tại đây. Đến thế kỷ thứ 7, ngôn ngữ của người Anglo-Saxon đã chiếm ưu thế hoàn toàn trên đảo, thay thế các ngôn ngữ của Anh thuộc La Mã (43–409): tiếng Britton chung, một ngôn ngữ Celt; và tiếng Latinh, ngôn ngữ do người La Mã du nhập vào. Hai cái tên England và English (ban đầu là Ænglaland và Ænglisc) đều bắt nguồn từ tộc danh “Angle”.
Tiếng Anh cổ được phân thành bốn phương ngữ chính: hai phương ngữ Angle (tiếng Mercia và tiếng Northumbria) và hai phương ngữ Saxon (tiếng Kent và tiếng Tây Saxon). Nhờ cải cách giáo dục của Vua Alfred vào thế kỷ thứ 9 cùng các ảnh hưởng của vương quốc Wessex, phương ngữ Tây Saxon đã trở thành dạng ngôn ngữ viết tiêu chuẩn. Sử thi Beowulf được viết bằng phương ngữ Tây Saxon; còn bài thơ tiếng Anh lâu đời nhất, Cædmon’s Hymn, được viết bằng phương ngữ Northumbria. Tiếng Anh hiện đại phát triển chủ yếu từ phương ngữ Mercia, còn tiếng Scots phát triển từ phương ngữ Northumbria. Một vài bản khắc ngắn vào thời tiếng Anh cổ sơ kỳ được viết bằng chữ rune. Đến thế kỷ thứ 6, người đảo Anh tiếp nhận bảng chữ cái Latinh và viết bằng phông chữ nửa ông-xi-an. Bảng chữ thời kì đầu này lưu giữ lại các kí tự rune là wynn ⟨ƿ⟩ và thorn ⟨þ⟩, và có thêm các ký tự Latinh cải biến là eth ⟨ð⟩ và ash ⟨æ⟩.
Tiếng Anh cổ về cơ bản là một ngôn ngữ khác hẳn tiếng Anh hiện đại. Người nói tiếng Anh thế kỷ 21, nếu không được học, sẽ không tài nào hiểu được tiếng Anh cổ. Ngữ pháp của nó có nét giống tiếng Đức hiện đại: Danh từ, tính từ, đại từ, và động từ có nhiều dạng thù biến hình hơn, và thứ tự câu cũng tự do hơn đáng kể tiếng Anh hiện đại. Tiếng Anh hiện địa có các dạng biến cách của đại từ (ví dụ he, him, his) và một số biến dạng ở động từ (ví dụ speak, speaks, speaking, spoke, spoken); song tiếng Anh cổ có sự biến cách ở danh từ, và động từ thì có nhiều đuôi biểu thị ngôi và số hơn. Ngay cả vào thế kỷ thứ 9 và 10, khi đảo Anh nằm dưới sự chi phối của Danelagh và hứng chịu các cuộc xâm lược triền miên của người Viking, vẫn có bằng chứng cho thấy tiếng Bắc Âu cổ và tiếng Anh cổ thông hiểu nhau ở mức độ tương đối cao.[42] Trên lý thuyết, tới tận những năm 900, thường dân ở Anh quốc vẫn có thể đối thoại với thường dân ở Scandinavia. Hiện nay, các nghiên cứu vẫn đang được tiến hành nhằm tìm hiểu về hàng trăm bộ lạc từng sinh sống trên đảo Anh và Scandinavia, cũng như các tiếp xúc tương giao giữa họ.[42]
Đoạn dịch tiếng Anh sau đây của Phúc Âm Mátthêu 8 : 20 vào năm 1000 cho thấy những đuôi biến cách ( danh cách số phức, đối cách số phức, thuộc cách số đơn ) và một đuôi vị ngữ ( thì hiện tại số phức ) :
- Foxas habbađ holu and heofonan fuglas nest
Fox-ascáo-NOM. PLhabb-ađcó-PRS. PLhol-uhố-ACC. PLandvàheofon-antrời-GEN. SGfugl-aschim-NOM. PLnest – ∅tổ-ACC. PLFox-as habb-ađ hol-u and heofon-an fugl-as nest – ∅cáo-NOM. PL có-PRS. PL hố-ACC. PL và trời-GEN. SG chim-NOM. PL tổ-ACC. PL” Cáo có hố và chim trời có tổ ”
Tiếng Anh trung đại
Englischmen þeyz hy hadde fram þe bygynnyng þre manner speche, Souþeron, Northeron, and Myddel speche in þe myddel of þe lond, … Noþeles by comyxstion and mellyng, furst wiþ Danes, and afterward wiþ Normans, in menye þe contray longage ys asperyed, and som vseþ strange wlaffyng, chyteryng, harryng, and garryng grisbytting .
Dịch nghĩa: Mặc dầu, từ thuở đầu, người Anh có ba tiếng nói, nam, bắc và trung địa ở giữa đất nước, … Tuy nhiên, thông qua sự trộn lẫn và sự giao hợp, đầu tiên với người Dane và rồi với người Norman, trong số đó mà ngôn ngữ đất nước đã trỗi dậy, còn một số thì sử dụng tiếng lắp bắp kì lạ, tiếng lạch cạch, tiếng cằn nhằn, và tiếng nghiến răng chói tai.
John Trevisa, khoảng chừng năm 1385
Trong thời kỳ thế kỷ VIII-XII, tiếng Anh cổ qua sự tiếp xúc ngôn từ đã chuyển thành tiếng Anh trung đại. Thời tiếng Anh trung đại thường được xem là khởi đầu từ cuộc xâm lược nước Anh của William Kẻ chinh phục năm 1066 .Ban đầu, những làn sóng thực dân hóa của người Norse ở miền bắc quần đảo Anh vào thế kỷ VIII-IX đưa tiếng Anh cổ đến sự tiếp xúc với tiếng Bắc Âu cổ, một ngôn từ German phía Bắc. Ảnh hưởng của tiếng Bắc Âu cổ mạnh nhất là ở những phương ngữ hướng đông bắc quanh York ( khu vực mà Danelaw được vận dụng ), nơi từng là TT của sự thuộc địa hóa ; ngày này những tác động ảnh hưởng này vẫn hiển hiện trong tiếng Scots và tiếng Anh bắc Anh .Với cuộc xâm lược của người Norman năm 1066, thứ tiếng Anh cổ được ” Bắc Âu hóa ” giờ lại tiếp xúc với tiếng Norman cổ, một ngôn từ Rôman rất gần với tiếng Pháp. Tiếng Norman tại Anh ở đầu cuối tăng trưởng thành tiếng Anglo-Norman. Vì tiếng Norman được nói đa phần bởi quý tộc và những tầng lớp cao của xã hội, trong khi thường dân liên tục nói tiếng Anglo-Saxon, tác động ảnh hưởng tiếng Norman mang đến một lượng lớn từ ngữ tương quan đến chính trị, pháp luật và sự thống trị. Tiếng Anh trung đại lượt bỏ bớt mạng lưới hệ thống biến tố. Sự độc lạ giữa danh cách và đối cách mất đi ( trừ ở đại từ ), công cụ cách bị vô hiệu, và công dụng của sở hữu cách bị số lượng giới hạn. Hệ thống biến tố ” quy tắc hóa ” nhiều dạng biến tố bất quy tắc, và từ từ đơn giản hóa mạng lưới hệ thống hợp, khiến cấu trúc câu kém mềm dẻo đi. Trong Kinh Thánh Wycliffe thập niên 1380, đoạn Phúc Âm Mátthêu 8 : 20 được viết
- Foxis han dennes, and briddis of heuene han nestis[47]
Ở đây, hậu tố thì hiện tại số nhiều -n ở động từ han (nguyên mẫu “haven”, gốc từ ha-) hiện diện, nhưng không có cách ngữ pháp nào được thể hiện.
Đến thế kỷ XII, tiếng Anh trung đại phát triển hoàn toàn, dung hợp vào mình cả ảnh hưởng của tiếng Bắc Âu cổ và tiếng Norman; và tiếp tục được nói cho tới khoảng năm 1500 thì trở thành tiếng Anh hiện đại. Nền văn học tiếng Anh trung đại có những tác phẩm như The Canterbury Tales của Geoffrey Chaucer, và Le Morte d’Arthur của Malory.
Tiếng Anh cận đại
Hình minh họa cuộc Great Vowel Shift, cho thấy cách phát âm nguyên âm dài dần thay đổi như thế nào, với các nguyên âm đóng dài i: và u: biến thành nguyên âm đôi
Thời kỳ tiếp theo là tiếng Anh cận đại ( Early Modern English, 1500 – 1700 ). Thời kỳ tiếng Anh cận đại điển hình nổi bật với cuộc Great Vowel Shift ( 1350 – 1700 ), liên tục đơn giản hóa biến tố, và sự chuẩn hóa ngôn từ .
Great Vowel Shift ảnh hưởng lên những nguyên âm dài được nhấn. Đây là một sự “biến đổi dây chuyền”, tức là một âm được biến đổi làm tác động lên các âm khác nữa. Những nguyên âm vừa và nguyên âm mở được nâng lên, và nguyên âm đóng biến thành nguyên âm đôi. Ví dụ, từ bite ban đầu được phát âm giống từ beet ngày nay, nguyên âm thứ hai trong từ about được phát âm giống trong từ boot ngày này. Great Vowel Shift gây nên nhiều sự bất tương đồng trong cách viết, vì tiếng Anh hiện đại duy trì phần nhiều cách viết của tiếng Anh trung đại, và cũng giải thích tại sao, các ký tự nguyên âm trong tiếng Anh lại được phát âm rất khác khi so với những ngôn ngữ khác.
Tiếng Anh trở thành ngôn ngữ uy tính dưới thời Henry V. Khoảng năm 1430, Tòa án Chancery tại Westminster bắt đầu sử dụng tiếng Anh để viết các tài liệu chính thức, và một dạng chuẩn mới, gọi là Chancery Standard, được hình thành dựa trên phương ngữ thành Luân Đôn và East Midlands. Năm 1476, William Caxton giới thiệu máy in ép tới nước Anh và bắt đầu xuất bản những quyển sách đầu tiên, làm lan rộng sự ảnh hưởng của dạng chuẩn mới. Những tác phẩm của William Shakespeare và bản dịch Kinh Thánh được ủy quyền bởi Vua James I đại diện cho nền văn học thời kỳ này. Sau cuộc Vowel Shift, tiếng Anh cận đại vẫn có nét khác biệt với tiếng Anh ngày nay: ví dụ, các cụm phụ âm /kn ɡn sw/ trong knight, gnat, và sword vẫn được phát âm đầy đủ. Những đặc điểm mà độc giả của Shakespeare ngày nay có thể thấy kỳ quặc hay lỗi thời thường đại diện cho những nét đặc trưng của tiếng Anh cận đại.
Trong Kinh Thánh Vua James 1611, viết bằng tiếng Anh cận đại, Mátthêu 8 : 20 :
- The Foxes haue holes and the birds of the ayre haue nests
Sự lan rộng của tiếng Anh văn minh
Tới cuối thế kỷ 18, Đế quốc Anh đã truyền bá tiếng Anh tới mọi ngóc ngách của những thuộc địa, cũng như những vùng chịu ảnh hưởng tác động địa chính trị của họ. Thương mại, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, thẩm mỹ và nghệ thuật và giáo dục đều đã góp thêm phần đưa tiếng Anh trở thành ngôn từ toàn thế giới đích thực tiên phong, đóng vai trò cốt yếu trong tiếp xúc quốc tế. Do quy trình bành trướng và thuộc địa hóa những vùng đất của Anh quốc, nhiều quy chuẩn tiếng Anh mới đã phát sinh trong diễn ngôn và văn viết. Ngày nay, tiếng Anh được đảm nhiệm và sử dụng ở một phần Bắc Mỹ, một phần châu Phi, Úc, và nhiều nơi khác. Thời hậu thuộc địa, 1 số ít vương quốc đa sắc tộc sau khi giành được độc lập vẫn giữ tiếng Anh là ngôn từ chính thức, để tránh những phiền phức chính trị xoay quanh việc quá ưu tiên một ngôn từ địa phương nhất định nào đó. Vào thế kỷ 20, tầm tác động ảnh hưởng kinh tế tài chính và văn hóa truyền thống ngày càng lớn của Hoa Kỳ, cũng như vị thế siêu cường của nó sau khi Chiến tranh quốc tế thứ hai khép lại, đã đẩy nhanh vận tốc Viral của tiếng Anh trên khắp toán cầu. Đến thế kỷ 21, tiếng Anh được nói và viết nhiều hơn bất kể một thứ tiếng nào trong lịch sử dân tộc .
Trong quá trình phát triển của tiếng Anh hiện đại, nhiều quy chuẩn sử dụng ngôn ngữ tường minh đã được đề xuất và phát hành, lan truyền thông qua các phương tiện như giáo dục phổ cập và các ấn bản tài trợ bởi nhà nước. Năm 1755, Samuel Johnson xuất bản cuốn A Dictionary of the English Language, trong đó giới thiệu các quy tắc đánh vần và phương thức sử dụng chuẩn chỉ tiếng Anh. Năm 1828, Noah Webster cho ra mắt từ điển American Dictionary of the English language nhằm hướng đến một sự quy chuẩn đối với khẩu ngữ và văn ngữ của tiếng Anh Mỹ, độc lập khỏi tiếng Anh Anh. Ở Anh quốc, các đặc điểm phương ngữ phi chuẩn hoặc hạ lưu đã liên tục bị dè bỉu và xem thường, điều mà đã dẫn đến sự lan rộng của các biến thể uy tín trong tầng lớp trung lưu.
Ở tiếng Anh hiện đại, sự tiêu biến cách ngữ pháp đã gần như hoàn thiện (giờ đây đặc điểm này chỉ xuất hiện ở các đại từ, v.d. các cặp như he và him, she và her, who và whom), và SVO là thứ tự từ ổn định. Một số biến đổi, chẳng hạn đặc điểm do-hỗ trợ, đã phổ biến ở mọi phương ngữ. (Tiếng Anh ngày xưa không dùng động từ “do” trong vai trò trợ động từ chung như tiếng Anh hiện đại; đặc điểm này vốn chỉ xuất hiện ở câu hỏi, song cũng không hoàn toàn bắt buộc. Ngày nay, “do-hỗ trợ” cùng động từ have đang ngày càng trở thành chuẩn.) Các dạng tiếp diễn đuôi -ing có vẻ đang lan sang các cấu trúc khác, và các dạng như had been being built đang ngày càng phổ biến. Sự chính quy hóa các dạng bất quy tắc cũng đang tiếp diễn chậm chạp (v.d. dreamed thay vì dreamt), và các lối thay thế mang tính phân tích đối với các dạng biến hình đang càng trở nên thông thường (v.d. more polite thay vì politer). Tiếng Anh Anh cũng đang trong quá trình biến đổi do bị ảnh hưởng của tiếng Anh Mỹ, thúc đẩy bởi sự hiện diện tràn lan của tiếng Anh Mỹ trên các phương tiện truyền thông và sự uy tín gắn liền với vị thế siêu cường của Hoa Kỳ.
Phân bố địa lý
Phần trăm số người bản ngữ tiếng Anh.
Tính đến năm năm nay, 400 triệu người có ngôn từ mẹ đẻ là tiếng Anh, và 1,1 tỉ người dùng nó làm ngôn từ thứ hai hoặc ngoại ngữ. [ 64 ] Tiếng Anh là ngôn từ đứng thứ ba về số người bản ngữ, sau tiếng Quan Thoại và tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên, khi kết hợp số người bản ngữ và phi bản ngữ, nó hoàn toàn có thể, tùy theo ước tính, là ngôn từ thông dụng nhất quốc tế. [ 66 ] [ 67 ] Tiếng Anh được nói bởi những hội đồng ở mọi nơi và ở hầu khắp những hòn hòn đảo trên những đại dương .
Ba vòng tròn vương quốc nói tiếng Anh
Braj Kachru phân biệt những vương quốc nơi tiếng Anh được nói bằng quy mô ba vòng tròn. Trong quy mô này, ” vòng trong ” là vương quốc với những hội đồng bản ngữ tiếng Anh lớn, ” vòng ngoài ” là những vương quốc nơi tiếng Anh chỉ là bản ngữ của số ít nhưng được sử dụng thoáng đãng trong giáo dục, truyền thông online và những mục tiêu khác, và ” vòng lan rộng ra ” là những vương quốc nơi nhiều người học tiếng Anh. Ba vòng tròn này đổi khác theo thời hạn .
Ba vòng tròn tiếng Anh của Braj Kachru.
Những quốc gia với các cộng đồng bản ngữ lớn gồm Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Hoa Kỳ, Úc, Canada, Cộng hòa Ireland, và New Zealand, những nơi đa phần dân số nói tiếng Anh, và Cộng hòa Nam Phi, nơi một thiểu số đáng kể nói tiếng Anh. Các quốc gia đông người bản ngữ tiếng Anh nhất là Hoa Kỳ (ít nhất 231 triệu), Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland (60 triệu), Canada (19 triệu), Úc (ít nhất 17 triệu), Cộng hòa Nam Phi (4,8 triệu), Cộng hòa Ireland (4,2 triệu), và New Zealand (3,7 triệu). Ở những quốc gia này, con của những người bản ngữ học tiếng Anh từ cha mẹ, còn người bản địa nói ngôn ngữ khác hay người nhập cư thường học tiếng Anh để giao tiếp với mọi người xung quanh.
Âm vị học
Ngữ âm và âm vị của tiếng Anh khác nhau giữa từng phương ngữ, nhưng chúng phần nhiều không tác động ảnh hưởng mấy đến quy trình tiếp xúc. Sự biến thiên âm vị tác động ảnh hưởng đến vốn âm vị ( tức âm tố phân biệt về ý nghĩa ), và sự biến thiên ngữ âm bao hàm sự độc lạ trong cách phát âm của những âm vị. Bài viết này chỉ nói tổng quan về hai dạng phát âm chuẩn được dùng ở Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, lần lượt là : Received Pronunciation ( RP ) và General American ( GA ) .Bảng bên dưới sử dụng mẫu tự chuẩn của Bảng mẫu tự phiên âm quốc tế ( IPA ) .
Phụ âm
Đa số phương ngữ tiếng Anh chiếm hữu cùng 24 phụ âm giống nhau. Bảng bên dưới bộc lộ những phụ âm của phương ngữ California của tiếng Anh Mỹ, và của chuẩn RP.
* Thường được phiên âm là / r /
Ở bảng trên, đối với các âm chặn (tắc, tắc-xát, và xát) đi theo cặp (chẳng hạn /p b/, /tʃ dʒ/, và /s z/), âm đứng trước trong cặp là âm căng (hay âm mạnh) còn âm sau là âm lơi (hay âm yếu). Khi phát âm các âm căng (như /p tʃ s/), ta cần phải căng cơ và hà hơi mạnh hơn so với khi phát âm các âm lơi (như /b dʒ z/), và những âm căng như vậy luôn vô thanh. Âm lơi hữu thanh một phần khi đứng đầu hoặc cuối ngữ lưu, và hữu thanh hoàn toàn khi bị kẹp giữa hai nguyên âm. Các âm tắc căng (như /p/) có thêm một số đặc điểm cấu âm hoặc âm học khác biệt ở đa phần các phương ngữ: chúng trở thành âm bật hơi [pʰ] khi đứng một mình ở đầu một âm tiết được nhấn, trở thành âm không bật hơi ở đa số trường hợp khác, và thường trở thành âm buông không nghe thấy [p̚ ] hoặc âm tiền-thanh hầu hóa [ˀp] khi đứng cuối âm tiết. Đối với các từ đơn âm tiết, nguyên âm đứng trước âm tắc căng được rút ngắn đi: thế nên nguyên âm của từ nip tiếng Anh ngắn hơn (về mặt ngữ âm, chứ không phải âm vị) nguyên âm của từ nib.
- âm tắc lơi: bin [ b ̥ ɪˑn ], about [ əˈbaʊt ], nib [ nɪˑb ̥ ]
- âm tắc căng: pin [ ˈpʰɪn ], spin [ spɪn ], happy [ ˈhæpi ], nip [ ˈnɪp ̚ ] hay [ ˈnɪˀp ]
Trong RP, âm tiếp cận bên /l/ có hai tha âm chính: âm [l] phẳng hoặc sáng, ví dụ trong từ light ‘nhẹ, ánh sáng’, và âm [ɫ] bị ngạc mềm hóa hoặc tối, ví dụ trong từ full ‘no, đầy’. Âm ɫ tối thường xuất hiên ở chuẩn GA.
- l sáng: light theo RP [ laɪt ]
- l tối: full theo RP và GA [ fʊɫ ], light theo GA [ ɫaɪt ]
Tất cả âm vang ( những âm lỏng / l, r / ) và những âm mũi ( / m, n, ŋ / ) mất thanh nếu đứng sau một âm chặn vô thanh, và mang âm tiết tính nếu đứng sau một phụ âm ở cuối từ .
- âm vang vô thanh: clay [ kl ̥ eɪ ̯ ]; snow RP [ sn ̥ əʊ ̯ ], GA [ sn ̥ oʊ ̯ ]
- âm vang âm tiết tính: paddle [ ˈpad. l ̩ ], button [ ˈbʌt. n ̩ ]
Nguyên âm
Sự phát âm nguyên âm biến thiên theo phương ngữ và là một trong những góc nhìn dễ nhận thấy nhất trong giọng của người nói. Bảng dưới là những âm vị nguyên âm trong Received Pronunciation ( RP ) và General American ( GA ), và những từ mà chúng Open. Âm vị được biểu lộ bằng IPA ; những từ trong RP là chuẩn trong những từ điển nước Anh .
Nguyên âm đơn
RP |
GA |
Từ
|
iː |
i |
need
|
ɪ |
bid
|
e |
ɛ |
bed
|
æ |
back
|
ɑː |
ɑ |
bra
|
ɒ |
box
|
ɔɑ |
cloth
|
ɔː |
paw
|
uː |
u |
food
|
ʊ |
good
|
ʌ |
but
|
ɜː |
ɜɹ |
bird
|
ə |
comma
|
Nguyên âm đôi khép
RP |
GA |
Từ
|
eɪ |
bay
|
əʊ |
oʊ |
road
|
aɪ |
cry
|
aʊ |
cow
|
ɔɪ |
boy
|
Nguyên âm đôi hướng trung
RP |
GA |
Từ
|
ɪə |
ɪɹ |
peer
|
eə |
ɛɹ |
pair
|
ʊə |
ʊɹ |
poor
|
Trong RP, độ dài nguyên âm được phân biệt; nguyên âm dài được đánh dấu ⟨ː⟩, ví dụ, nguyên âm trong need [niːd] khác với trong bid [bɪd]. GA không có nguyên âm dài.
Ngữ pháp
Khác với nhiều ngôn ngữ Ấn-Âu khác, tiếng Anh đã gần như loại bỏ hệ thống biến tố dựa trên cách để thay bằng cấu trúc phân tích. Đại từ nhân xưng duy trì hệ thống cách hoàn chỉnh hơn những lớp từ khác. Tiếng Anh có bảy lớp từ chính: động từ, danh từ, tính từ, trạng từ, hạn định từ (tức mạo từ), giới từ, và liên từ. Có thể tách đại từ khỏi danh từ, và thêm vào thán từ. Tiếng Anh có một tập hợp trợ động từ phong phú, như have (nghĩa đen ‘có’) và do (‘làm’). Câu nghi vấn có do-support, và wh-movement (từ hỏi wh– đứng đầu).
Một vài đặc điểm tiêu biểu của ngữ tộc German vẫn còn ở tiếng Anh, như những thân từ được biến tố “mạnh” thông qua ablaut (tức đổi nguyên âm của thân từ, tiêu biểu trong speak/spoke và foot/feet) và thân từ “yếu” biến tố nhờ hậu tố (như love/loved, hand/hands). Vết tích của hệ thống cách và giống hiện diện trong đại từ (he/him, who/whom) và sự biến tố động từ to be.
Trong ví dụ sau, cả bảy lớp từ xuất hiện :
The |
chairman |
of |
the |
committee |
and |
the |
loquacious |
politician |
clashed |
violently |
when |
the |
meeting |
started
|
HĐT. |
DT. |
GT. |
HĐT. |
DT. |
LT. |
HĐT. |
TiT. |
DT. |
ĐT. |
TrT. |
LT. |
HĐT. |
DT. |
ĐT.
|
- (Chủ tịch ủy ban và vị chính khách lắm lời va vào nhau dữ dội khi cuộc họp bắt đầu)
Danh từ
Danh từ dùng biến tố để chỉ số và sự chiếm hữu. Danh từ mới hoàn toàn có thể được tạo ra bằng cách ghép từ ( gọi là compound noun ). Danh từ được chia ra thành danh từ riêng và danh từ chung. Danh từ cũng được chia thành danh từ đơn cử ( như ” table ” – cái bàn ) và danh từ trừu tượng ( như ” sadness ” – nỗi buồn ), và về mặt ngữ pháp gồm danh từ đếm được và không đếm được .
Đa số danh từ đếm được có thể biến tố để thể hiện số nhiều nhờ hậu tố –s/es, nhưng một số có dạng số nhiều bất quy tắc. Danh từ không đếm được chỉ có thể “số nhiều hóa” nhờ một danh từ có chức năng như phân loại từ (ví dụ one loaf of bread, two loaves of bread).
Ví dụ :Cách lập số nhiều thường thì :
- Số ít: cat, dog
- Số nhiều: cats, dogs
Cách lập số nhiều bất quy tắc :
- Số ít: man, woman, foot, fish, ox, knife, mouse
- Số nhiều: men, women, feet, fish, oxen, knives, mice
Sự sở hữu được thể hiện bằng (‘)s (thường gọi là hậu tố sở hữu), hay giới từ of. Về lịch sử (‘)s được dùng cho danh từ chỉ vật sống, còn of dùng cho danh từ chỉ vật không sống. Ngày nay sự khác biệt này ít rõ ràng hơn. Về mặt chính tả, hậu tố -s được tách khỏi gốc danh từ bởi dấu apostrophe.
Cấu trúc sở hữu:
- Với -s: The woman’s husband’s child
- Với of: The child of the husband of the woman
- (Con của chồng của người phụ nữ)
Động từ
Động từ tiếng Anh được chia theo thì và thể, và hợp (agreement) với đại từ ngôi số ba số ít. Chỉ động từ to be vẫn phải hợp với đại từ ngôi thứ nhất và thứ hai số nhiều. Trợ động từ như have và be đi kèm với động từ ở dạng hoàn thành và tiếp diễn. Trợ động từ khác với động từ thường ở chỗ từ not (chỉ sự phủ định) có thể đi ngay sau chúng (ví dụ, have not và do not), và chúng có thể đứng đầu trong câu nghi vấn.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài