ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ – Tài liệu text

ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.21 KB, 16 trang )

Bạn đang đọc: ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ – Tài liệu text

ĐỀ ÁN
ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
(Ban hành kèm theo Quyết định số 171/2004/QĐ-TTg
ngày 28 tháng 9 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ)
MỞ ĐẦU
I. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN NAY
1. Những đổi mới bước đầu
2. Những yếu kém và nguyên nhân
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN
LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Mục tiêu
2. Quan điểm
3. Nguyên tắc
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
2. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
3. Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ
4. Đổi mới cơ chế quản lý nhân lực khoa học và công nghệ
5. Phát triển thị trường công nghệ
6. Hoàn thiện cơ chế hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
MỞ ĐẦU
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và
phát triển bền vững đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định vai trò then chốt của
cách mạng khoa học và kỹ thuật. Trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới,
nhiều văn bản quan trọng về định hướng chiến lược và cơ chế, chính sách phát triển khoa học
và công nghệ đã được ban hành: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII (1996); Kết
luận của Hội nghị Trung ương 6 khoá IX (2002); Luật Khoa học và Công nghệ (2000);
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 (2003); và nhiều chính
sách cụ thể khác về xây dựng tiềm lực và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ.
Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và đặc biệt là sự cố gắng của đội ngũ cán bộ khoa học

và công nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ đã có bước chuyển biến, đạt được một số
tiến bộ và kết quả nhất định, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an
ninh, quốc phòng của đất nước.
Tuy nhiên, hoạt động khoa học và công nghệ của nước ta hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế và sự phát triển kinh tế tri thức trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra những
hạn chế cơ bản của hoạt động khoa học và công nghệ hiện nay là: “Chưa thực sự gắn kết với
nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội; chậm đưa vào ứng dụng những kết quả
đã nghiên cứu được; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với các nước
xung quanh; năng lực tạo ra công nghệ mới còn rất có hạn. Các cơ quan nghiên cứu khoa học
chậm được sắp xếp cho đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu quả thấp. Các
viện nghiên cứu và các doanh nghiệp, các trường đại học chưa gắn kết với nhau. Việc đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật thiếu tập trung và dứt điểm cho từng mục tiêu. Cán bộ
khoa học và công nghệ có trình độ cao tuy còn ít, song chưa được sử dụng tốt.”
Mục tiêu của Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đến năm 2010 là: “Tập
trung xây dựng nền khoa học và công nghệ nước ta theo hướng hiện đại và hội nhập, phấn
đấu đạt trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệ
thực sự trở thành nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.”
Để đạt được mục tiêu phát triển khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2010, phải đổi mới
mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo bước chuyển biến căn bản trong quản lý
khoa học và công nghệ theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ, với yêu cầu chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ; tăng
cường và sử dụng có hiệu quả tiềm lực khoa học và công nghệ.
Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ tập trung vào các giải pháp chủ yếu: (1)
Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; (2) Đổi
mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ; (3) Đổi mới cơ chế,
chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ; (4) Đổi mới cơ chế quản
lý nhân lực khoa học và công nghệ; (5) Phát triển thị trường công nghệ; (6) Hoàn thiện cơ
chế hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.

I. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN NAY
1. Những đổi mới bước đầu
Cùng với quá trình đổi mới cơ chế kinh tế, trong những năm qua, cơ chế quản lý khoa học và
công nghệ từng bước được đổi mới và đạt được một số kết quả bước đầu.
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được đổi mới theo
hướng có trọng tâm, trọng điểm, bám sát hơn các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội. Các
chương trình, đề tài Nhà nước được bố trí tập trung hơn, khắc phục một bước tình trạng phân
tán, dàn trải, cân đối hơn giữa khoa học tự nhiên và công nghệ với khoa học xã hội và nhân
văn. Cơ chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo
nguyên tắc cạnh tranh, dân chủ, bình đẳng và công khai bước đầu được áp dụng, góp phần
nâng cao chất lượng thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ đã từng bước được đổi mới theo hướng
xã hội hoá và gắn kết với sản xuất, kinh doanh. Các tổ chức và cá nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế có quyền thành lập các tổ chức khoa học và công nghệ. Phạm vi hoạt động của các tổ
chức này được mở rộng từ nghiên cứu, đào tạo, đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công
nghệ. Đã xuất hiện nhiều tổ chức khoa học và công nghệ ngoài nhà nước, nhiều cơ sở sản
xuất trong các viện nghiên cứu, trường đại học, góp phần đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào
sản xuất.
Cơ chế, chính sách tài chính cho khoa học và công nghệ đã được đổi mới theo hướng tăng
dần tỷ lệ chi cho khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách nhà nước và đa dạng hoá
nguồn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Việc cấp kinh phí đến nhà khoa học đã được
cải tiến một bước trên cơ sở tuyển chọn theo nguyên tắc cạnh tranh và giảm bớt các khâu
trung gian không cần thiết. Quyền tự chủ về tài chính bước đầu được triển khai áp dụng đối
với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Cơ chế quản lý nhân lực được đổi mới theo hướng mở rộng hơn quyền chủ động cho cán bộ
khoa học và công nghệ trong việc ký kết hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ, trong hoạt động kiêm nhiệm và hoạt động hợp tác quốc tế. Chế độ hợp đồng lao động
đã được mở rộng hơn đối với các tổ chức khoa học và công nghệ. Đã áp dụng một số hình
thức tôn vinh, khen thưởng đối với cán bộ khoa học và công nghệ.
Các thể chế hỗ trợ cho phát triển thị trường công nghệ đã bước đầu được hình thành. Các quy

định pháp lý về hợp đồng khoa học và công nghệ, hoạt động chuyển giao công nghệ, sở hữu
trí tuệ đã được ban hành tạo điều kiện cho việc thương mại hoá các thành quả khoa học và
công nghệ. Chợ công nghệ – thiết bị đã được tổ chức ở nhiều địa phương và ở phạm vi quốc
gia, hình thành kênh giao dịch thị trường thúc đẩy hoạt động mua bán thiết bị và các sản
phẩm khoa học và công nghệ.
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ đã được cải tiến
một bước thông qua việc hoàn thiện tổ chức bộ máy, quy định chức năng, nhiệm vụ và trách
nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
Những kết quả đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ vừa qua đã góp phần tạo nên
thành tựu chung của nền khoa học và công nghệ được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
đánh giá “… khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ chuyển biến tích
cực, gắn bó hơn với phát triển kinh tế, xã hội.”
2. Những yếu kém và nguyên nhân
Mặc dù đã có những tiến bộ nhất định, cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiện
nay còn chưa được đổi mới cơ bản, còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, với đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ trong xu thế toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự xuất phát
từ các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội. Chưa định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các
ngành, các cấp trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu
khắc phục tình trạng trùng lặp nhiệm vụ khoa học và công nghệ giữa các ngành, các cấp, các
địa phương. Tiêu chuẩn lựa chọn và việc lựa chọn chuyên gia tham gia các hội đồng tư vấn
để xác định, tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đánh
giá kết quả nghiên cứu còn bất cập. Công tác đánh giá kết quả nghiên cứu chưa tương hợp
với chuẩn mực quốc tế.
Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp với đặc thù của lao động
sáng tạo và cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiếu quy hoạch các tổ
chức khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực khoa học và
công nghệ trọng điểm và nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Các tổ chức khoa học và công

nghệ của Nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân
lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo và gắn kết giữa nghiên cứu, đào
tạo và sản xuất, kinh doanh. Chưa xây dựng được các tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng và
hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ nói chung và các tổ chức khoa học và công
nghệ nói riêng.
Cơ chế, chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân
hoạt động khoa học và công nghệ. Cơ chế tài chính còn chưa tạo ra sự tự chủ cao đối với các
tổ chức khoa học và công nghệ. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
còn dàn trải, thiếu tập trung cho các lĩnh vực, công trình trọng điểm. Thiếu biện pháp hữu
hiệu để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ.
Thiếu các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để khuyến khích nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao
vào sản xuất, kinh doanh.
Cơ chế quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực sáng
tạo của cán bộ khoa học và công nghệ. Chậm chuyển đổi từ chế độ công chức sang chế độ
viên chức và hợp đồng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển và đổi mới cán bộ.
Thiếu cơ chế, biện pháp cụ thể xây dựng và nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ đầu ngành và các tập thể khoa học và công nghệ mạnh. Chế độ tiền lương còn bất
hợp lý, không khuyến khích cán bộ toàn tâm với sự nghiệp khoa học và công nghệ. Chưa có
các chính sách cụ thể khuyến khích mạnh lực lượng khoa học và công nghệ ngoài nước tham
gia đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu
thông các kết quả nghiên cứu còn rất hạn chế do thiếu nhiều tác nhân quan trọng, các yếu tố
cấu thành thị trường và các quy định pháp lý cần thiết.
Phần lớn các kết quả nghiên cứu còn dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm, chưa tạo ra được
nhiều công nghệ hoàn chỉnh có thể thương mại hoá. Chưa chú trọng việc mua sáng chế công
nghệ của các nước tiên tiến để đổi mới công nghệ.
Quy định về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ chưa khuyến khích các tổ chức
thực hiện nghiên cứu quan tâm khai thác, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được tạo ra
bằng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ thấp. Năng
lực của các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ còn yếu chưa thật sự đáp ứng vai trò cầu

nối giữa cung và cầu.
Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển sang
kinh tế thị trường. Thiếu cơ chế cụ thể để điều phối hoạt động quản lý nhà nước về khoa học
và công nghệ. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt
động khoa học và công nghệ còn thiếu, chưa cụ thể, thiếu đồng bộ, lạc hậu so với thực tiễn,
nhiều quy định không khả thi. Thiếu phân công, phân cấp rõ ràng về quyền hạn và trách
nhiệm giữa các Bộ, ngành và giữa trung ương với địa phương.
Những yếu kém nêu trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã
được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt đầy đủ để
chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương trong
xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội. Nhiều chủ trương,
chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển khoa học và công nghệ chậm được thể chế
hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu đổi mới trong thực tiễn; lãnh đạo
các cấp thiếu kiên trì, kiên quyết trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện đổi mới quản lý khoa học
và công nghệ.
Hai là, chậm đổi mới tư duy, phương pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điều kiện
chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước về đầu tư phát triển đối với một số hoạt động khoa
học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu mang tính công ích, nghiên cứu chiến
lược, chính sách phát triển v.v…; chưa có cơ chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động
khoa học và công nghệ cần và có thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động nghiên cứu
ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Chưa tách biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sự nghiệp dẫn đến tình trạng các
cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và quy định trách nhiệm rõ ràng
trong hoạt động khoa học và công nghệ.
Ba là, chưa coi trọng tổng kết thực tiễn các điển hình tiên tiến. Trong những năm gần đây,
với sự năng động sáng tạo của các tổ chức khoa học và công nghệ, đã xuất hiện nhiều điển
hình tốt về gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất, nhưng chưa được tổng kết kịp

thời để nhân rộng.
Bốn là, cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thông
qua các ưu đãi, độc quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp nhà nước ít quan
tâm đến nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Năng
lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn bất cập, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ trong các doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào sản
xuất. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự
huy động được nguồn vốn để đầu tư cho khoa học và công nghệ.
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN
LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Mục tiêu
a) Mục tiêu chung:
Từ nay đến năm 2010, tiếp tục đổi mới, tạo bước chuyển biến cơ bản trong quản lý khoa học
và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với yêu cầu chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ, nhằm nâng
cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ,
phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển bền vững với tốc độ nhanh của đất nước.
b) Mục tiêu cụ thể:
Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện đổi mới cơ chế quản lý khoa
học và công nghệ.
Hoàn thiện cơ chế xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ gắn với
nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và cơ chế đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ dựa
trên tiêu chuẩn chất lượng khoa học và hiệu quả kinh tế – xã hội.
Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công
lập; hoàn thành việc thí điểm và tổng kết rút kinh nghiệm để nhân rộng việc chuyển các tổ
chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp.
Phấn đấu đạt tỷ lệ 50/50 giữa kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ từ nguồn kinh phí
ngân sách nhà nước và nguồn ngoài ngân sách nhà nước trên cơ sở áp dụng các biện pháp
hữu hiệu đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ; đổi mới cơ
bản cơ chế tài chính tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ.

Hoàn thành cơ bản các thể chế hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ, thúc đẩy mua bán,
chuyển giao và đổi mới công nghệ.
Thực hiện các chính sách trọng dụng, tôn vinh nhân tài trong hoạt động khoa học và công
nghệ.
Thực hiện cải cách hành chính, phân công, phân cấp và nâng cao vai trò điều phối của Chính
phủ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ.
2. Quan điểm
Việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ cần thực hiện theo các quan điểm sau
đây:
a) Chuyển mạnh quản lý khoa học và công nghệ từ cơ chế hành chính, bao cấp sang cơ chế
thị trường; tách biệt quản lý giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thống
khoa học và công nghệ.
b) Đẩy mạnh xã hội hoá, tạo môi trường bình đẳng cho mọi tổ chức, cá nhân hoạt động khoa
học và công nghệ.
c) Gắn kết chặt chẽ sản xuất, kinh doanh với nghiên cứu, đào tạo; doanh nghiệp đóng vai trò
là trung tâm ứng dụng và đổi mới công nghệ.
d) Phát huy dân chủ, nâng cao tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong
khoa học xã hội và nhân văn.
đ) Đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế hoạt động khoa học và công nghệ, tiếp thu có chọn
lọc tri thức khoa học, chuyển giao công nghệ, thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển
khoa học và công nghệ.
3. Nguyên tắc
Việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ trong thời gian tới phải đảm bảo các
nguyên tắc chủ yếu sau:
a) Bảo đảm sự đồng bộ giữa đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ với đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, xã hội.
b) Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách rõ ràng và nhất quán, bảo đảm sự điều hoà, phối
hợp, phân công, phân cấp và quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn giữa các Bộ, ngành, địa
phương trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.

c) Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, tạo động
lực mạnh mẽ về vật chất và tinh thần cho các tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học và công
nghệ trong điều kiện kinh tế thị trường.
d) Lấy chất lượng khoa học – công nghệ và hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu
để đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ; tiến tới các tiêu chuẩn đánh giá của quốc tế.
đ) Bảo đảm tính khả thi, coi trọng tổng kết thực tiễn trong quá trình thực hiện.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải xuất phát từ
nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, của các ngành, địa phương ở mỗi thời kỳ.
a) Phân công, phân cấp rõ ràng trong xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và
công nghệ
Chính phủ quyết định các định hướng phát triển khoa học và công nghệ trọng điểm làm cơ sở
xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nước, có tầm quan trọng quốc gia, mang
tính liên ngành và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng và nâng
cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia. Thủ tướng Chính phủ quyết định các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, các nhiệm vụ khoa học – công nghệ
phục vụ trực tiếp cho sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ
trì, phối hợp với các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
cơ quan liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ này,
lồng ghép với các chương trình kinh tế – xã hội.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quyết định nhiệm vụ khoa học và công
nghệ phục vụ trực tiếp mục tiêu phát triển của mình, không trùng lặp với nhiệm vụ khoa học
và công nghệ cấp nhà nước. Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ thuộc Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan xây dựng và tổ
chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc phạm vi quản lý.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định nhiệm vụ khoa học
và công nghệ chủ yếu mang tính ứng dụng, phục vụ trực tiếp mục tiêu phát triển kinh tế – xã
hội của địa phương. Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ của tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương giúp Chủ tịch ủy ban nhân dân xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ

khoa học và công nghệ của địa phương.
Các tổ chức khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội thuộc mọi thành phần
kinh tế tham gia xây dựng và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước, tự
chủ trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tổ chức mình.
Tăng cường sự điều phối của Chính phủ trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm
vụ khoa học và công nghệ để tránh sự chồng chéo và trùng lặp. Bộ Khoa học và Công nghệ
giúp Chính phủ tổ chức thực hiện việc điều phối này.
và công nghệ, hoạt động giải trí khoa học và công nghệ đã có bước chuyển biến, đạt được một sốtiến bộ và hiệu quả nhất định, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội, bảo vệ anninh, quốc phòng của quốc gia. Tuy nhiên, hoạt động giải trí khoa học và công nghệ của nước ta lúc bấy giờ vẫn chưa phân phối yêu cầucủa sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia, nhất là trong xu thế hội nhập kinh tếquốc tế và sự tăng trưởng kinh tế tri thức trên quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ ra nhữnghạn chế cơ bản của hoạt động giải trí khoa học và công nghệ lúc bấy giờ là : ” Chưa thực sự kết nối vớinhu cầu và hoạt động giải trí của những ngành kinh tế tài chính, xã hội ; chậm đưa vào ứng dụng những kết quảđã điều tra và nghiên cứu được ; trình độ khoa học và công nghệ của ta còn thấp nhiều so với những nướcxung quanh ; năng lượng tạo ra công nghệ mới còn rất hạn chế. Các cơ quan nghiên cứu và điều tra khoa họcchậm được sắp xếp cho đồng điệu, còn phân tán, thiếu phối hợp, do đó đạt hiệu suất cao thấp. Cácviện điều tra và nghiên cứu và những doanh nghiệp, những trường ĐH chưa kết nối với nhau. Việc đầu tưxây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật thiếu tập trung chuyên sâu và dứt điểm cho từng tiềm năng. Cán bộkhoa học và công nghệ có trình độ cao tuy còn ít, tuy nhiên chưa được sử dụng tốt. ” Mục tiêu của Chiến lược tăng trưởng khoa học và công nghệ Nước Ta đến năm 2010 là : ” Tậptrung thiết kế xây dựng nền khoa học và công nghệ nước ta theo hướng tân tiến và hội nhập, phấnđấu đạt trình độ trung bình tiên tiến và phát triển trong khu vực vào năm 2010, đưa khoa học và công nghệthực sự trở thành nền tảng và động lực tăng cường công nghiệp hoá, hiện đại hoá quốc gia. ” Để đạt được tiềm năng tăng trưởng khoa học và công nghệ nước ta đến năm 2010, phải đổi mớimạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, tạo bước chuyển biến cơ bản trong quản lýkhoa học và công nghệ theo hướng tương thích với cơ chế thị trường khuynh hướng xã hội chủnghĩa, với đặc trưng của hoạt động giải trí khoa học và công nghệ, với nhu yếu dữ thế chủ động hội nhập kinhtế quốc tế, nhằm mục đích nâng cao rõ ràng chất lượng, hiệu suất cao hoạt động giải trí khoa học và công nghệ ; tăngcường và sử dụng có hiệu suất cao tiềm lực khoa học và công nghệ. Đề án đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ tập trung chuyên sâu vào những giải pháp đa phần : ( 1 ) Hoàn thiện cơ chế thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệ ; ( 2 ) Đổimới cơ chế quản lý và hoạt động giải trí của những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ ; ( 3 ) Đổi mới cơ chế, chủ trương góp vốn đầu tư kinh tế tài chính cho hoạt động giải trí khoa học và công nghệ ; ( 4 ) Đổi mới cơ chế quảnlý nhân lực khoa học và công nghệ ; ( 5 ) Phát triển thị trường công nghệ ; ( 6 ) Hoàn thiện cơchế hoạt động giải trí của cỗ máy quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. I. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN NAY1. Những đổi mới bước đầuCùng với quy trình đổi mới cơ chế kinh tế tài chính, trong những năm qua, cơ chế quản lý khoa học vàcông nghệ từng bước được đổi mới và đạt được một số ít hiệu quả trong bước đầu. Việc thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai triển khai trách nhiệm khoa học và công nghệ được đổi mới theohướng có trọng tâm, trọng điểm, bám sát hơn những trách nhiệm tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Cácchương trình, đề tài Nhà nước được sắp xếp tập trung chuyên sâu hơn, khắc phục một bước thực trạng phântán, giàn trải, cân đối hơn giữa khoa học tự nhiên và công nghệ với khoa học xã hội và nhânvăn. Cơ chế tuyển chọn tổ chức triển khai, cá thể triển khai trách nhiệm khoa học và công nghệ theonguyên tắc cạnh tranh đối đầu, dân chủ, bình đẳng và công khai minh bạch trong bước đầu được vận dụng, góp phầnnâng cao chất lượng thực thi những trách nhiệm khoa học và công nghệ. Cơ chế quản lý những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ đã từng bước được đổi mới theo hướngxã hội hoá và kết nối với sản xuất, kinh doanh thương mại. Các tổ chức triển khai và cá thể thuộc mọi thành phầnkinh tế có quyền xây dựng những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ. Phạm vi hoạt động giải trí của những tổchức này được lan rộng ra từ nghiên cứu và điều tra, huấn luyện và đào tạo, đến sản xuất và dịch vụ khoa học và côngnghệ. Đã Open nhiều tổ chức triển khai khoa học và công nghệ ngoài nhà nước, nhiều cơ sở sảnxuất trong những viện nghiên cứu và điều tra, trường ĐH, góp thêm phần đưa nhanh hiệu quả điều tra và nghiên cứu vàosản xuất. Cơ chế, chủ trương kinh tế tài chính cho khoa học và công nghệ đã được đổi mới theo hướng tăngdần tỷ suất chi cho khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách nhà nước và phong phú hoánguồn góp vốn đầu tư tăng trưởng khoa học và công nghệ. Việc cấp kinh phí đầu tư đến nhà khoa học đã đượccải tiến một bước trên cơ sở tuyển chọn theo nguyên tắc cạnh tranh đối đầu và giảm bớt những khâutrung gian không thiết yếu. Quyền tự chủ về kinh tế tài chính trong bước đầu được tiến hành vận dụng đốivới những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ công lập. Cơ chế quản lý nhân lực được đổi mới theo hướng lan rộng ra hơn quyền dữ thế chủ động cho cán bộkhoa học và công nghệ trong việc ký kết hợp đồng nghiên cứu và điều tra khoa học và tăng trưởng côngnghệ, trong hoạt động giải trí kiêm nhiệm và hoạt động giải trí hợp tác quốc tế. Chế độ hợp đồng lao độngđã được lan rộng ra hơn so với những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ. Đã vận dụng 1 số ít hìnhthức tôn vinh, khen thưởng so với cán bộ khoa học và công nghệ. Các thể chế tương hỗ cho tăng trưởng thị trường công nghệ đã trong bước đầu được hình thành. Các quyđịnh pháp lý về hợp đồng khoa học và công nghệ, hoạt động giải trí chuyển giao công nghệ, sở hữutrí tuệ đã được phát hành tạo điều kiện kèm theo cho việc thương mại hoá những thành quả khoa học vàcông nghệ. Chợ công nghệ – thiết bị đã được tổ chức triển khai ở nhiều địa phương và ở khoanh vùng phạm vi quốcgia, hình thành kênh thanh toán giao dịch thị trường thôi thúc hoạt động giải trí mua và bán thiết bị và những sảnphẩm khoa học và công nghệ. Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ đã được cải tiếnmột bước trải qua việc triển khai xong tổ chức triển khai cỗ máy, pháp luật công dụng, trách nhiệm và tráchnhiệm của những Bộ, cơ quan ngang Bộ và ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thường trực Trungương. Những tác dụng đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ vừa mới qua đã góp thêm phần tạo nênthành tựu chung của nền khoa học và công nghệ được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IXđánh giá “ … khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ chuyển biến tíchcực, gắn bó hơn với tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội. ” 2. Những yếu kém và nguyên nhânMặc dù đã có những văn minh nhất định, cơ chế quản lý khoa học và công nghệ ở nước ta hiệnnay còn chưa được đổi mới cơ bản, còn chưa tương thích với cơ chế thị trường khuynh hướng xãhội chủ nghĩa, với đặc trưng của hoạt động giải trí khoa học và công nghệ trong xu thế toàn cầu hoá vàhội nhập kinh tế tài chính quốc tế. Việc xác lập và tổ chức triển khai triển khai trách nhiệm khoa học và công nghệ chưa thực sự xuất pháttừ những trách nhiệm tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Chưa định rõ quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của cácngành, những cấp trong việc xác lập trách nhiệm khoa học và công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệukhắc phục thực trạng trùng lặp trách nhiệm khoa học và công nghệ giữa những ngành, những cấp, cácđịa phương. Tiêu chuẩn lựa chọn và việc lựa chọn chuyên viên tham gia những hội đồng tư vấnđể xác lập, tuyển chọn tổ chức triển khai, cá thể thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệ, đánhgiá hiệu quả nghiên cứu và điều tra còn chưa ổn. Công tác nhìn nhận hiệu quả điều tra và nghiên cứu chưa tương hợpvới chuẩn mực quốc tế. Cơ chế quản lý những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ chưa tương thích với đặc trưng của lao độngsáng tạo và cơ chế kinh tế thị trường xu thế xã hội chủ nghĩa. Thiếu quy hoạch những tổchức khoa học và công nghệ cung ứng nhu yếu tăng trưởng những ngành, nghành nghề dịch vụ khoa học vàcông nghệ trọng điểm và nhu yếu tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội. Các tổ chức triển khai khoa học và côngnghệ của Nhà nước chưa được thực thi không thiếu quyền tự chủ về kế hoạch, kinh tế tài chính, nhânlực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, phát minh sáng tạo và kết nối giữa điều tra và nghiên cứu, đàotạo và sản xuất, kinh doanh thương mại. Chưa kiến thiết xây dựng được những tiêu chuẩn đơn cử nhìn nhận chất lượng vàhiệu quả của hoạt động giải trí khoa học và công nghệ nói chung và những tổ chức triển khai khoa học và côngnghệ nói riêng. Cơ chế, chủ trương kinh tế tài chính chưa tạo động lực và điều kiện kèm theo thuận tiện cho tổ chức triển khai, cá nhânhoạt động khoa học và công nghệ. Cơ chế kinh tế tài chính còn chưa tạo ra sự tự chủ cao so với cáctổ chức khoa học và công nghệ. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệcòn giàn trải, thiếu tập trung chuyên sâu cho những nghành nghề dịch vụ, khu công trình trọng điểm. Thiếu giải pháp hữuhiệu để kêu gọi những nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ. Thiếu những nguồn vốn góp vốn đầu tư mạo hiểm để khuyến khích nghiên cứu và điều tra, ứng dụng công nghệ caovào sản xuất, kinh doanh thương mại. Cơ chế quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lượng sángtạo của cán bộ khoa học và công nghệ. Chậm quy đổi từ chính sách công chức sang chế độviên chức và hợp đồng, chưa tạo điều kiện kèm theo thuận tiện cho việc lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế, giải pháp đơn cử kiến thiết xây dựng và nâng cao vai trò của đội ngũ cán bộ khoa học vàcông nghệ đầu ngành và những tập thể khoa học và công nghệ mạnh. Chế độ tiền lương còn bấthợp lý, không khuyến khích cán bộ toàn tâm với sự nghiệp khoa học và công nghệ. Chưa cócác chủ trương đơn cử khuyến khích mạnh lực lượng khoa học và công nghệ ngoài nước thamgia góp phần vào sự nghiệp tăng trưởng quốc gia. Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm tăng trưởng. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưuthông những tác dụng nghiên cứu và điều tra còn rất hạn chế do thiếu nhiều tác nhân quan trọng, những yếu tốcấu thành thị trường và những pháp luật pháp lý thiết yếu. Phần lớn những hiệu quả nghiên cứu và điều tra còn dừng ở khoanh vùng phạm vi phòng thí nghiệm, chưa tạo ra đượcnhiều công nghệ hoàn hảo hoàn toàn có thể thương mại hoá. Chưa chú trọng việc mua sáng tạo côngnghệ của những nước tiên tiến và phát triển để đổi mới công nghệ. Quy định về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ chưa khuyến khích những tổ chứcthực hiện điều tra và nghiên cứu chăm sóc khai thác, kinh doanh thương mại hóa những tác dụng nghiên cứu và điều tra được tạo rabằng kinh phí đầu tư từ ngân sách nhà nước. Hiệu lực thực thi pháp lý về sở hữu trí tuệ thấp. Nănglực của những tổ chức triển khai trung gian, môi giới công nghệ còn yếu chưa thật sự phân phối vai trò cầunối giữa cung và cầu. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với nhu yếu chuyển sangkinh tế thị trường. Thiếu cơ chế đơn cử để điều phối hoạt động giải trí quản lý nhà nước về khoa họcvà công nghệ. Hệ thống những văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước so với hoạtđộng khoa học và công nghệ còn thiếu, chưa đơn cử, thiếu đồng điệu, lỗi thời so với thực tiễn, nhiều lao lý không khả thi. Thiếu phân công, phân cấp rõ ràng về quyền hạn và tráchnhiệm giữa những Bộ, ngành và giữa TW với địa phương. Những yếu kém nêu trên là do những nguyên do hầu hết sau đây : Một là, quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực tăng trưởng quốc gia đãđược khẳng định chắc chắn trong những Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được không cho khá đầy đủ đểchuyển thành hành vi thực tiễn của những cấp chính quyền sở tại, những Bộ, ngành, địa phương trongxây dựng và tổ chức triển khai thực thi những trách nhiệm tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Nhiều chủ trương, chủ trương của Đảng và nhà nước về tăng trưởng khoa học và công nghệ chậm được thể chếhoá bằng những văn bản quy phạm pháp luật cung ứng nhu yếu đổi mới trong thực tiễn ; lãnh đạocác cấp thiếu kiên trì, nhất quyết trong tổ chức triển khai và chỉ huy thực thi đổi mới quản lý khoa họcvà công nghệ. Hai là, chậm đổi mới tư duy, chiêu thức quản lý khoa học và công nghệ trong điều kiệnchuyển sang kinh tế thị trường xu thế xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế tài chính quốc tế. Chưa làm rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của Nhà nước về góp vốn đầu tư tăng trưởng so với 1 số ít hoạt động giải trí khoahọc và công nghệ như điều tra và nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu và điều tra mang tính công ích, điều tra và nghiên cứu chiếnlược, chủ trương tăng trưởng v.v… ; chưa có cơ chế, chủ trương tương thích so với những hoạt độngkhoa học và công nghệ cần và hoàn toàn có thể vận dụng cơ chế thị trường như hoạt động giải trí nghiên cứuứng dụng và tăng trưởng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ. Chưa tách biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động giải trí sự nghiệp dẫn đến thực trạng cáccơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực thi trách nhiệm nghiên cứu và điều tra khoa học và phát triểncông nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và lao lý nghĩa vụ và trách nhiệm rõ ràngtrong hoạt động giải trí khoa học và công nghệ. Ba là, chưa coi trọng tổng kết thực tiễn những nổi bật tiên tiến và phát triển. Trong những năm gần đây, với sự năng động phát minh sáng tạo của những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ, đã Open nhiều điểnhình tốt về kết nối giữa điều tra và nghiên cứu khoa học với sản xuất, nhưng chưa được tổng kết kịpthời để nhân rộng. Bốn là, cơ chế quản lý kinh tế tài chính lúc bấy giờ còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thôngqua những tặng thêm, độc quyền trong nhiều nghành nghề dịch vụ, khiến cho những doanh nghiệp nhà nước ít quantâm đến điều tra và nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lượng cạnh tranh đối đầu. Nănglực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn chưa ổn, thiếu đội ngũ cán bộ khoa học vàcông nghệ trong những doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng dụng những tác dụng điều tra và nghiên cứu vào sảnxuất. Hệ thống kinh tế tài chính, tiền tệ kém tăng trưởng cũng không tạo điều kiện kèm theo cho doanh nghiệp tựhuy động được nguồn vốn để góp vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ. II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢNLÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ1. Mục tiêua ) Mục tiêu chung : Từ nay đến năm 2010, liên tục đổi mới, tạo bước chuyển biến cơ bản trong quản lý khoa họcvà công nghệ tương thích với cơ chế thị trường khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, với nhu yếu chủđộng hội nhập kinh tế tài chính quốc tế và đặc trưng của hoạt động giải trí khoa học và công nghệ, nhằm mục đích nângcao rõ ràng chất lượng, hiệu suất cao hoạt động giải trí và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ, Giao hàng đắc lực cho sự nghiệp tăng trưởng bền vững và kiên cố với vận tốc nhanh của quốc gia. b ) Mục tiêu đơn cử : Hoàn thiện mạng lưới hệ thống những văn bản quy phạm pháp luật thực thi đổi mới cơ chế quản lý khoahọc và công nghệ. Hoàn thiện cơ chế xác lập và tổ chức triển khai thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệ gắn vớinhu cầu tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội và cơ chế nhìn nhận hoạt động giải trí khoa học và công nghệ dựatrên tiêu chuẩn chất lượng khoa học và hiệu suất cao kinh tế tài chính – xã hội. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm của những tổ chức triển khai khoa học và công nghệ cônglập ; hoàn thành xong việc thử nghiệm và tổng kết rút kinh nghiệm tay nghề để nhân rộng việc chuyển những tổchức nghiên cứu ứng dụng và tăng trưởng công nghệ sang hoạt động giải trí theo cơ chế doanh nghiệp. Phấn đấu đạt tỷ suất 50/50 giữa kinh phí đầu tư góp vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ từ nguồn kinh phíngân sách nhà nước và nguồn ngoài ngân sách nhà nước trên cơ sở vận dụng những biện pháphữu hiệu đa dạng hoá nguồn vốn góp vốn đầu tư cho hoạt động giải trí khoa học và công nghệ ; đổi mới cơbản cơ chế kinh tế tài chính tạo thuận tiện cho tổ chức triển khai, cá thể hoạt động giải trí khoa học và công nghệ. Hoàn thành cơ bản những thể chế tương hỗ tăng trưởng thị trường công nghệ, thôi thúc mua và bán, chuyển giao và đổi mới công nghệ. Thực hiện những chủ trương trọng dụng, tôn vinh nhân tài trong hoạt động giải trí khoa học và côngnghệ. Thực hiện cải cách hành chính, phân công, phân cấp và nâng cao vai trò điều phối của Chínhphủ nhằm mục đích nâng cao hiệu suất cao hoạt động giải trí của cỗ máy quản lý nhà nước về khoa học và côngnghệ. 2. Quan điểmViệc đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ cần triển khai theo những quan điểm sauđây : a ) Chuyển mạnh quản lý khoa học và công nghệ từ cơ chế hành chính, bao cấp sang cơ chếthị trường ; tách biệt quản lý giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ thốngkhoa học và công nghệ. b ) Đẩy mạnh xã hội hoá, tạo môi trường tự nhiên bình đẳng cho mọi tổ chức triển khai, cá thể hoạt động giải trí khoahọc và công nghệ. c ) Gắn kết ngặt nghèo sản xuất, kinh doanh thương mại với điều tra và nghiên cứu, giảng dạy ; doanh nghiệp đóng vai tròlà TT ứng dụng và đổi mới công nghệ. d ) Phát huy dân chủ, nâng cao tính phát minh sáng tạo trong nghiên cứu và điều tra khoa học, đặc biệt quan trọng là trongkhoa học xã hội và nhân văn. đ ) Đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế hoạt động giải trí khoa học và công nghệ, tiếp thu có chọnlọc tri thức khoa học, chuyển giao công nghệ, lôi cuốn nguồn lực bên ngoài Giao hàng phát triểnkhoa học và công nghệ. 3. Nguyên tắcViệc đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ trong thời hạn tới phải bảo vệ cácnguyên tắc đa phần sau : a ) Bảo đảm sự đồng điệu giữa đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ với đổi mới cơchế quản lý kinh tế tài chính, xã hội. b ) Xây dựng mạng lưới hệ thống cơ chế, chủ trương rõ ràng và đồng nhất, bảo vệ sự điều hoà, phốihợp, phân công, phân cấp và pháp luật rõ nghĩa vụ và trách nhiệm và quyền hạn giữa những Bộ, ngành, địaphương trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. c ) Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh đối đầu lành mạnh, tạo độnglực can đảm và mạnh mẽ về vật chất và ý thức cho những tổ chức triển khai và cá thể hoạt động giải trí khoa học và côngnghệ trong điều kiện kèm theo kinh tế thị trường. d ) Lấy chất lượng khoa học – công nghệ và hiệu suất cao kinh tế tài chính – xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếuđể nhìn nhận hoạt động giải trí khoa học và công nghệ ; tiến tới những tiêu chuẩn nhìn nhận của quốc tế. đ ) Bảo đảm tính khả thi, coi trọng tổng kết thực tiễn trong quy trình triển khai. III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ1. Hoàn thiện cơ chế thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệCơ chế thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệ phải xuất phát từnhiệm vụ tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội của vương quốc, của những ngành, địa phương ở mỗi thời kỳ. a ) Phân công, phân cấp rõ ràng trong thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai thực thi trách nhiệm khoa học vàcông nghệChính phủ quyết định hành động những xu thế tăng trưởng khoa học và công nghệ trọng điểm làm cơ sởxác định trách nhiệm khoa học và công nghệ cấp nhà nước, có tầm quan trọng vương quốc, mangtính liên ngành và dài hạn, ship hàng tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội, bảo mật an ninh, quốc phòng và nângcao năng lượng khoa học và công nghệ vương quốc. Thủ tướng nhà nước quyết định hành động những nhiệmvụ khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, những trách nhiệm khoa học – công nghệphục vụ trực tiếp cho sự chỉ huy quản lý của nhà nước. Bộ Khoa học và Công nghệ chủtrì, phối hợp với những Bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thường trực Trung ương vàcơ quan tương quan kiến thiết xây dựng và tổ chức triển khai triển khai những trách nhiệm khoa học và công nghệ này, lồng ghép với những chương trình kinh tế tài chính – xã hội. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc nhà nước quyết định hành động trách nhiệm khoa học và côngnghệ Giao hàng trực tiếp tiềm năng tăng trưởng của mình, không trùng lặp với trách nhiệm khoa họcvà công nghệ cấp nhà nước. Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ thuộc Bộ, cơ quanngang Bộ, cơ quan thuộc nhà nước giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan kiến thiết xây dựng và tổchức thực thi những trách nhiệm khoa học và công nghệ thuộc khoanh vùng phạm vi quản lý. Uỷ ban nhân dân những tỉnh, thành phố thường trực Trung ương quyết định hành động trách nhiệm khoa họcvà công nghệ hầu hết mang tính ứng dụng, ship hàng trực tiếp tiềm năng tăng trưởng kinh tế tài chính – xãhội của địa phương. Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ của tỉnh, thành phố trực thuộcTrung ương giúp quản trị ủy ban nhân dân thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai triển khai những nhiệm vụkhoa học và công nghệ của địa phương. Các tổ chức triển khai khoa học và công nghệ, những doanh nghiệp, tổ chức triển khai xã hội thuộc mọi thành phầnkinh tế tham gia kiến thiết xây dựng và thực thi trách nhiệm khoa học và công nghệ của Nhà nước, tựchủ trong việc xác lập trách nhiệm khoa học và công nghệ của tổ chức triển khai mình. Tăng cường sự điều phối của nhà nước trong việc thiết kế xây dựng và tổ chức triển khai thực thi những nhiệmvụ khoa học và công nghệ để tránh sự chồng chéo và trùng lặp. Bộ Khoa học và Công nghệgiúp nhà nước tổ chức triển khai triển khai việc điều phối này .

Source: https://vvc.vn
Category : Công nghệ

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay
Liên kết:SXMB