Ngày 20-6-1840, Samuel Morse đã nhận bằng phát minh máy điện báo, một phương tiện liên lạc quan trọng của con người.
Năm 1825, thành phố Thành Phố New York đã ủy thác cho Morse vẽ một bức chân dung của nhà quý tộc Marquis de Lafayette ở Washington, DC. Trong khi Morse đang vẽ tranh, một sứ giả cưỡi ngựa đã gửi một lá thư từ cha ông, viết rằng : ” Người vợ thân yêu của con đang phục sinh ” .
Thế nhưng, ngày hôm sau ông nhận được một lá thư khác của cha kể chi tiết cụ thể về cái chết bất thần của vợ ông. Morse ngay lập tức rời Washington về nhà ở New Haven, để lại bức chân dung dang dở. Khi ông về đến nơi, vợ ông đã được chôn cất. Đau lòng vì nhiều ngày qua không biết gì về sức khỏe thể chất của vợ mình và cái chết của bà, ông quyết định hành động tìm hiểu và khám phá một phương tiện đi lại liên lạc đường dài nhanh gọn .
|
Samuel Morse. |
|
Máy điện báo đầu tiên của Morse.
|
Trong khi quay trở lại bằng tàu từ châu Âu vào năm 1832, Morse đã gặp Charles Thomas Jackson ở Boston, một người rất giỏi về điện từ. Chứng kiến nhiều thí nghiệm khác nhau với nam châm từ điện của Jackson, Morse đã tăng trưởng khái niệm điện báo một dây. Ông đặt bức tranh “ Phòng tọa lạc Louvre ” của mình sang một bên để tập trung chuyên sâu tăng trưởng điện báo .
Máy điện báo Morse ban đầu, được gửi cùng với đơn xin cấp bằng sáng chế của ông, là một phần bộ sưu tập của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Mỹ tại Viện Smithsonian. Theo thời gian, mã Morse, mà ông đã phát triển, dần trở thành ngôn ngữ chính của điện báo trên thế giới. Và nó là tiêu chuẩn để truyền dữ liệu bằng âm thanh.
Trong khi đó, William Cooke và Giáo sư Charles Wheatstone đã biết về điện báo điện từ Wilhelm Weber và Carl Gauss vào năm 1833. Họ đã đạt đến quá trình phóng điện báo thương mại trước Morse, mặc dầu khởi đầu sau đó. Ở Anh, Cooke bị mê hoặc bởi điện báo vào năm 1836, 4 năm sau Morse. Nhờ có nguồn kinh tế tài chính lớn, Cooke đã bỏ nghề chính về giải phẫu để sản xuất một máy điện báo nhỏ trong vòng 3 tuần .
Wheatstone cũng đang thử nghiệm điện báo và ( quan trọng nhất ) hiểu rằng một pin lớn sẽ không mang tín hiệu điện báo trong khoảng chừng cách xa. Ông đưa ra giả thuyết rằng nhiều pin nhỏ đã thành công xuất sắc và hiệu suất cao hơn rất nhiều trong trách nhiệm lê dài khoảng cách điện báo. Tuy nhiên, trong một vài năm, phương pháp báo hiệu nhiều dây của Cooke và Wheatstone đã bị vượt qua bởi giải pháp rẻ hơn của Morse .
Trong một bức thư năm 1848 gửi cho một người bạn, Morse kể lại việc ông đã chiến đấu can đảm và mạnh mẽ như thế nào để được gọi là nhà ý tưởng duy nhất của điện báo điện từ, mặc kệ những ý tưởng trước đó .
Morse gặp phải vấn đề nhận tín hiệu điện báo để truyền qua hơn vài trăm thước dây. Bước đột phá của ông đến từ những hiểu biết của Leonard Gale, giáo sư hóa học tại Đại học New York. Với sự giúp đỡ của giáo sư Gale, Morse giới thiệu mạch thêm hoặc rơle theo chu kỳ thường xuyên và đã sớm có thể gửi một tin nhắn vượt qua 10 dặm (16 km) dây.
Morse đã tới Washington, D.C. vào năm 1838 để tìm kiếm sự hỗ trợ vốn của liên bang cho một đường dây điện báo nhưng không thành công xuất sắc. Ông đến châu Âu, tìm kiếm cả hỗ trợ vốn và văn bằng bản quyền trí tuệ, nhưng tại London ông phát hiện ra rằng Cooke và Wheatstone đã được ưu tiên. Trở về Mỹ, sau cuối Morse đã nhận được sự ủng hộ kinh tế tài chính của ông Francis Ormand Jonathan Smith, nghị sĩ bang Maine. Khoản hỗ trợ vốn này hoàn toàn có thể là ví dụ tiên phong về việc cơ quan chính phủ tương hỗ cho một nhà nghiên cứu tư nhân, đặc biệt quan trọng là hỗ trợ vốn cho nghiên cứu ứng dụng ( trái ngược với điều tra và nghiên cứu cơ bản hoặc kim chỉ nan ) .