Người Neanderthal (phát âm tiếng Anh: ,[7] còn được viết là Neandertal, phiên âm tiếng Việt: Nêanđectan, với các danh pháp khoa học là Homo neanderthalensis hay Homo sapiens neanderthalensis)[8] là một loài hoặc phân loài của người cổ xưa sinh sống tại đại lục Á-Âu cho tới tầm 40.000 năm trước.[9][10][11][12] Tuy nguyên nhân tuyệt chủng của họ còn là đề tài “bị tranh cãi gay gắt”, các yếu tố nhân khẩu như cỡ quần thể nhỏ, giao phối cận huyết, và sự biến động ngẫu nhiên được coi là những căn do khả dĩ.[13][14] Nhiều học giả khác đề xuất các giả thuyết như: sự cạnh tranh thay thế,[15] sự bị-đồng-hóa vào bộ gen người hiện đại (hòa huyết cho tới khi tuyệt chủng),[16] sự biến đổi khí hậu quy mô lớn,[17][18][19] dịch bệnh,[20][21] hoặc kết hợp nhiều nguyên nhân trên.[19]
Không rõ từ khi nào dòng người Neanderthal tách khỏi dòng người hiện đại; các nghiên cứu suy đoán nhiều khoảng thời gian khác nhau, có khi vào tầm 315.000 năm trước[22] cũng có khi sớm tận 800.000 năm trước.[23] Niên đại phân tách của người Neanderthal với tổ tiên H. heidelbergensis của họ cũng chưa sáng tỏ. Những di cốt lâu đời nhất có khả năng thuộc về người Neanderthal đã 430.000 năm tuổi song phân loại của chúng vẫn còn mơ hồ.[24] Ta có rất nhiều hóa thạch của người Neanderthal, hầu hết có niên đại sau thời điểm 130.000 năm trước.[25] Mẫu chuẩn Neanderthal 1 được phát hiện vào năm 1856 tại Thung lũng Neander ở Đức ngày nay. Hồi đầu thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu mô tả người Neanderthal là nguyên thủy, không thông minh và tàn bạo. Nhưng với các kiến thức và phát hiện gần đây, nhận thức của cộng đồng khoa học về giống người này đã thay đổi rõ rệt, tuy rằng hình ảnh người Neanderthal man dã chui rúc trong hang động vẫn còn phổ biến trong văn hóa đại chúng.[27]
Đồ gia công của người Neanderthal khá tinh xảo, có thể thấy ở kỹ nghệ đồ đá Moustier.[28][29] Họ biết cách tạo lửa,[30][31] biết chế tác bếp sưởi trong hang,[32][33] biết chiết xuất hắc ín từ vỏ cây bạch dương,[34] biết chế tác vật dùng để giữ ấm thân thể giống như chăn và poncho,[35] biết dệt,[36] có khả năng đóng bè đi biển tại Địa Trung Hải,[37][38] biết tận dụng các loại cây thuốc,[39][40][41] biết điều trị vết thương nặng,[42] biết bảo quản thực phẩm,[43] và biết áp dụng các kỹ thuật nấu ăn như quay, đun sôi,[44] và hun khói.[45] Người Neanderthal ăn chủ yếu thú có móng,[46] ngoài ra còn ăn nhiều loài động vật lớn,[47] thực vật,[48][49][50] thú cỡ nhỏ, chim chóc và thủy hải sản. Tuy người Neanderthal dường như là kẻ săn mồi đầu bảng, họ vẫn thường xuyên phải cạnh tranh với nhiều loài dã thú lớn như gấu hang, sư tử hang và linh cẩu hang. Một số bằng chứng chỉ tới sự tồn tại của tư duy biểu tượng (symbolic thought) và khả năng biểu đạt nghệ thuật ở người Neanderthal song chưa phải điều xác đáng, cụ thể là các đồ trang trí làm từ móng và lông chim,[54] hoặc vỏ sò,[56] bộ sưu tập các vật như tinh thể và hóa thạch,[57] bản khắc,[58] nhạc khí ví dụ như cây sáo Divje Babe,[59] và các bức tranh hang động Tây Ban Nha[60] (hiện bị tranh cãi) có niên đại trước 65.000 năm trước.[61][62] Một số nhà khảo cổ cho rằng người Neanderthal có tín ngưỡng tôn giáo.[63] Người Neanderthal dường như có khả năng nói, mặc dù ta chưa rõ độ phức tạp của ngôn ngữ mà họ sử dụng.[64][65]
So với người hiện đại, người Neanderthal chiếm hữu dáng vóc cường tráng hơn và những chi hoạt động ngắn hơn ( tương đối với khung hình ). Các nhà nghiên cứu cho rằng những đặc thù này là sự thích nghi để bảo tồn nhiệt trong khí hậu lạnh, hoặc có lẽ rằng là sự thích nghi để chạy nước rút trong môi trường tự nhiên rừng rậm, ấm cúng hơn mà người Neanderthal thường sinh sống. [ 66 ] Tuy vậy đúng là họ chiếm hữu nhiều đặc thù sinh học thích nghi với giá rét, ví dụ điển hình như năng lực tích trữ chuyên biệt chất béo trong khung hình [ 67 ] và mũi to để làm ấm không khí hít vào [ 68 ] ( có người cho rằng đặc thù mũi to là do sự phiêu bạt di truyền [ 69 ] ). Đàn ông Neanderthal trung bình cao khoảng chừng 165 cm còn đàn bà trung bình cao khoảng chừng 153 cm, tựa như như người hiện đại thời tiền-công-nghiệp. [ 70 ] Dung tích hộp sọ trung bình của đàn ông và đàn bà Neanderthal lần lượt là 1.600 cm3 ( 98 in khối ) và 1.300 cm3 ( 79 in khối ), [ 71 ] [ 72 ] [ 73 ] nằm trong khoanh vùng phạm vi khả dĩ của người hiện đại. Hộp sọ của người Neanderthal dài hơn so với người hiện đại và có những thùy đỉnh [ 74 ] [ 75 ] [ 76 ] và vùng tiểu não nhỏ hơn ; [ 77 ] [ 78 ] những nhà khảo cổ nhờ vào đó để phân loại những vật mẫu .
Tổng dân số của người Neanderthal rất thấp, khiến tăng sinh các biến thể gen yếu và có hại,[79] góp phần loại trừ mối liên kết đường dài hiệu quả giữa các cộng đồng sống xa cách nhau. Dẫu vậy ta vẫn có bằng chứng về các nền văn hóa địa phương và sự giao thiệp thường xuyên giữa các cộng đồng Neanderthal.[80][81] Họ có lẽ thường lui tới các hang động và di chuyển luân phiên giữa các hang theo mùa.[82] Người Neanderthal sống trong môi trường căng thẳng cao với tỉ lệ chấn thương cao, nghiên cứu chỉ ra khoảng 80% cá nhân chết trước tuổi 40.[83] Báo cáo sơ thảo dự án bộ gen người Neanderthal năm 2010 đã trình bày bằng chứng về sự giao phối giữa người Neanderthal và người hiện đại.[84][85][86] Sự giao hợp này có lẽ đã xảy ra cách đây 316–219 nghìn năm,[87] nhưng ước tính 100.000 năm và 65.000 năm trước có vẻ chuẩn hơn.[88] Người Neanderthal dường như cũng lai hợp với một nhóm người cổ khác gọi là người Denisova sinh sống ở Siberia.[89][90] Khoảng 1–4% bộ gen của người Âu-Á, người Australo-Melanesia, người Mỹ bản địa và người Bắc Phi được thừa kế từ tổ tiên Neanderthal, trong khi cư dân châu Phi cận Sahara chỉ sở hữu 0,3% gen Neanderthal, điều này có vẻ lưu lại dấu vết hướng luồng gen từ Sapiens-sang-Neanderthal, hoặc ám chỉ một cuộc di cư ngược trở lại Châu Phi gần đây của người Á-Âu. Tóm lại, khoảng 20% các biến thể gen Neanderthal vẫn tồn tại rõ ràng cho đến ngày nay.[91] Mặc dù nhiều biến thể gen thừa kế từ người Neanderthal gây bất lợi và được chọn lọc,[79] sự nhập gen Neanderthal vào gen Sapiens (introgression) có vẻ đã ảnh hưởng đến hệ miễn dịch,[92][93][94][95] cùng một số chức năng và cấu trúc sinh học của người hiện đại,[96] tuy vậy phần lớn số gen đó chỉ là tập hợp những ADN không mã hóa (Non-coding DNA hay ncDNA).
Phụ chú: Thuật ngữ “người hiện đại” trong bài đồng nghĩa với H. sapiens.
Phân loại học[sửa|sửa mã nguồn]
Người Neanderthal được đặt tên theo thung lũng Neander, nơi tìm thấy mẫu vật được nhận dạng đầu tiên. Chính tả tên gọi của thung lũng này là Neanderthal và tên gọi của loài người này là Neanderthaler trong tiếng Đức cho đến cải cách chính tả năm 1901.[b] Sách báo tiếng Anh đôi khi viết Neandertal, ngay cả trong các ấn phẩm khoa học, nhưng tên khoa học H. neanderthalensis phải luôn được viết với chữ th theo luật ưu tiên danh pháp. Tên bản ngữ của loài này trong tiếng Đức là Neandertaler (nghĩa đen là “cư dân Thung lũng Neander”), còn Neandertal được dùng để chỉ thung lũng.[c] Bản thân thung lũng này được đặt theo tên của nhà thần học và thi hào người Đức cuối thế kỷ 17 Joachim Neander.[98] Trong tiếng Anh, Neanderthal có thể được phát âm với âm /t/ (kiểu như )[101] hoặc với âm sát /θ/ (kiểu như ).[102][103]
Mẫu chuẩn (type specimen) Neanderthal 1 có tên khác là “hộp sọ Neanderthal” (“Neanderthal cranium” hoặc “Neanderthal skull”) trong các tài liệu nhân chủng học, và cá thể được tái tạo dựa trên cơ sở hộp sọ đó đôi khi được gọi là “người đàn ông Neanderthal” (“the Neanderthal man”).[104] Danh pháp hai phần Homo neanderthalensis — tức là ta đã mở rộng tên gọi “người Neanderthal” ban đầu thuộc về một cá thể duy nhất để chỉ toàn bộ một giống loài và chính thức công nhận loài người kia khác biệt với người hiện đại (H. sapiens) — lần đầu tiên được đề xuất bởi nhà địa chất học người Ireland tên là William King trong một bài báo đọc trước Hiệp hội Khoa học Anh lần thứ 33 vào năm 1863.[105][106][107] Tuy nhiên vào năm 1864, ông khuyến nghị nên tách người Neanderthal và người hiện đại thành hai chi khác nhau sau khi đối chiếu sọ người Neanderthal với sọ tinh tinh, cho rằng họ “không có khả năng quan niệm đạo đức và [ hữu thần[d] ]”.[108]
H. stupidus (tức Neanderthal) là tổ tiên của H. sapiens[1]Cây phát sinh nhóm Linh trưởng lỗi thời của Ernst Haeckel cho thấy ( tức Neanderthal ) là tổ tiên của
Lịch sử điều tra và nghiên cứu[sửa|sửa mã nguồn]
Di cốt người Neanderthal được phát hiện lần đầu tiên — Engis 2 (một hộp sọ) — bởi nhà tự nhiên học người Hà Lan Philippe-Charles Schmerling vào năm 1829 tại Grottes d’Engis, Bỉ; nhưng bấy giờ ông cho rằng đó là hộp sọ hóa thạch của người hiện đại.[109] Năm 1848, Edmund Henry Réné Flint trình diện mẫu vật Gibraltar 1 từ Mỏ đá Forbes lên Hiệp hội Khoa học Gibraltar song họ cho rằng đó là hộp sọ của người hiện đại.[110] Năm 1856, giáo viên địa phương Johann Carl Fuhlrott nhận thấy sự khác biệt của một số di cốt — Neanderthal 1 — tại Kleine Feldhofer Grotte trong Thung lũng Neander.[e] Vào năm 1857, ông nộp số di cốt đó cho nhà nhân chủng học người Đức Hermann Schaaffhausen để tiến hành nghiên cứu. Mẫu này bao gồm xương sọ, xương đùi, cánh tay phải, xương trụ và xương cánh tay trái, xương hông trái, một phần xương vai phải, và các mảnh xương sườn.[108][111] Dựa theo học thuyết của Charles Darwin trong cuốn Nguồn gốc các loài, Fuhlrott và Schaaffhausen lập luận rằng di cốt này thuộc về một dạng người hiện đại cổ;[27][108][112][113] Schaaffhausen vốn là người theo chủ nghĩa Darwin xã hội nên ông tin rằng con người phát triển tuyến tính từ dã man lên văn minh, dựa vào đó mà đi đến kết luận người Neanderthal là giống mọi rợ ăn lông ở lỗ.[27] Fuhlrott và Schaaffhausen bị nhà bệnh lý học Rudolf Virchow chỉ trích gay gắt vì dám suy diễn loài mới chỉ dựa trên một mẫu vật duy nhất. Vào năm 1872, Virchow phản biện rằng mẫu Neanderthal kia là một cá nhân mắc bệnh tật, chứ thực chất chẳng có giống người cổ nào được phát hiện.[114] Nhận định sai lầm của Virchow đã làm đình trệ công tác nghiên cứu người Neanderthal cho đến cuối thế kỷ 19.[27][112]
Đầu thế kỷ 20, ngày càng nhiều mẫu Neanderthal được phát hiện giúp xác lập H. neanderthalensis như một loài chính đáng. Mẫu vật Neanderthal có ảnh hưởng nhất phải kể đến mang tên La Chapelle-aux-Saints 1 (biệt danh “Lão già”) được phát hiện tại La Chapelle-aux-Saints, Pháp. Nhà cổ sinh người Pháp Marcellin Boule, một trong những người đặt nền móng phương pháp luận khoa học cho ngành cổ sinh vật học, đã xuất bản nhiều báo cáo học thuật trình bày chi tiết về mẫu La Chapelle-aux-Saints 1, song ông miêu tả giống người này như vượn và có quan hệ xa xôi với loài người. Mẫu vật giả mạo có tên Người Piltdown vào năm 1912 được sử dụng làm bằng chứng về các nhánh người cổ đã tồn tại trong quá khứ, và để ủng hộ phiên bản phục dựng của Boule về loài H. neanderthalensis như một họ hàng xa của con người và một nhánh cụt tiến hóa.[27][115][116][117] Boule là nguyên nhân khiến hình ảnh người Neanderthal gù lưng, man rợ, cầm chày, trở nên phổ biến trong văn hóa đại chúng; chẳng hạn như mô tả trong các tác phẩm The Quest for Fire (1911) của J.-H. Rosny aîné và The Grisly Folk (1927) của H. G. Wells.[27] Năm 1911, nhà nhân học người Scotland Arthur Keith tái tạo mẫu La Chapelle-aux-Saints 1 là tổ tiên trực hệ của người hiện đại, ngồi cạnh đống lửa, sản xuất công cụ, đeo vòng cổ và có tư thế giống con người hơn, nhưng giới khoa học lại chẳng mấy tán thành học thuyết của ông. Keith sau đó từ bỏ luận án của mình vào năm 1915.[27][112][118]
Giữa thế kỷ 20, sau khi trò bịp người Piltdown bị phơi bày kèm với sự tái kiểm định mẫu La Chapelle-aux-Saints 1 (mẫu này thực chất mắc chứng thoái hóa khớp khiến cột sống bị gù xuống) và nhiều khám phá mới, cộng đồng khoa học bắt tay tái xây dựng bức tranh về người Neanderthal. Những ý tưởng như hành vi, trí thông minh và văn hóa của người Neanderthal bắt đầu được thảo luận, và hình ảnh “giống người hơn” của họ bắt đầu xuất hiện. Năm 1939, nhà nhân học người Mỹ Carleton Coon phục dựng người Neanderthal mặc quần áo công sở hiện đại nhằm nhấn mạnh rằng họ và người hiện đại không khác nhau là mấy. Cuốn tiểu thuyết The Inheritors năm 1955 của William Golding mô tả người Neanderthal có cảm xúc và văn minh hơn nhiều.[27][117] Tuy nhiên, hình ảnh người Neanderthal man rợ của Boule vẫn có tầm ảnh hưởng cho đến những năm 1960. Hiện nay, các tác phẩm tái tạo người Neanderthal đều mô tả họ rất giống con người.[112][117]
Giao phối lai tạp giữa người Neanderthal và người hiện đại cổ xưa đã được suy đoán từ rất sớm, [ 119 ] ví dụ điển hình bởi nhà nhân học người Anh Thomas Huxley vào năm 1890, [ 120 ] nhà dân tộc bản địa học người Đan Mạch Hans Peder Steensby vào năm 1907, [ 121 ] và Coon vào năm 1962. [ 122 ] Đầu những năm 2000, một số ít vật mẫu được cho là lai giữa hai dòng người đã được phát hiện : Lagar Velho 1 [ 123 ] [ 124 ] [ 125 ] [ 126 ] và Muierii 1. [ 127 ] Tuy nhiên, giải phẫu tựa như của chúng có lẽ rằng là do tiến hóa quy tụ. Gen Neanderthal trong những quần thể hiện đại được xác lập lần đầu vào năm 2010 với việc lập map trình tự bộ gen người Neanderthal. [ 84 ] Bản đồ này dựa trên 3 di cốt trong hang Vindija tại Croatia, chứa gần 4 % ADN cổ ( được cho phép những nhà khoa học báo cáo giải trình gần như hoàn hảo bộ gen ). Tuy nhiên, người ta thấy rằng cứ 200 cặp bazơ lại có 1 sai hỏng bởi tỉ lệ đột biến cao đến mức khó tin, có vẻ như bị ảnh hưởng tác động bởi môi trường tự nhiên dữ gìn và bảo vệ mẫu. Vào năm 2012, nhà di truyền học người Mỹ gốc Anh Graham Coop đưa ra giả thuyết rằng họ đã tìm thấy dẫn chứng về một loài người cổ xưa khác giao phối với người hiện đại. Thuyết này bị bác bỏ vào năm 2013 sau khi những nhà khoa học báo cáo giải trình bộ gen Neanderthal chất lượng cao được bảo tồn trong mẩu xương ngón chân tìm thấy tại Hang Denisova, Siberia .
Người Neanderthal thuộc chi Homo của họ Người và thường được coi là một loài riêng biệt với danh pháp hai phần H. neanderthalensis, tuy cũng có khi được coi là một phân loài theo danh pháp ba phần H. sapiens neanderthalensis. Nếu ta chấp nhận kiểu phân loại sau thì người hiện đại phải được định danh là H. sapiens sapiens.[8]
Tranh cãi về phân loại của người Neaderthal bắt nguồn từ sự mơ hồ của khái niệm ” loài “, vì thuật ngữ này thường được sử dụng để phân biệt hai quần thể cách biệt về mặt di truyền, tuy nhiên ta biết rằng người hiện đại và người Neanderthal trọn vẹn hoàn toàn có thể giao phối. [ 8 ] [ 129 ] Tuy nhiên, bởi lẽ nhiễm sắc thể Y phụ hệ và ADN ty thể mẫu hệ ( mtDNA ) bắt nguồn từ người Neanderthal không Open ở người hiện đại cộng với sự vắng mặt của ADN nhiễm sắc thể X của người Neanderthal ý niệm rằng con lai của hai nhóm thường có rủi ro tiềm ẩn bị vô sinh. [ 86 ] [ 130 ] [ 131 ] [ 132 ] Điều này chứng tỏ một rào cản sinh sản sống sót giữa hai nhóm, chính thế cho nên hoàn toàn có thể coi chúng là hai loài khác nhau. [ 86 ]
Năm 2014, nhà di truyền học Svante Pääbo phát biểu rằng “cuộc chiến phân loại” này bất phân thắng bại, “vì không một định nghĩa nào về loài phản ánh hoàn hảo trường hợp đây”.[8]
Người Neanderthal có quan hệ họ hàng gần với người Denisova hơn người hiện đại. Hai giống người cổ kia có tổ tiên chung sau cuối ( LCA ) gần đây hơn so với người hiện đại dựa trên nghiên cứu và phân tích ADN hạt nhân ( nDNA ). Tuy nhiên, người Neanderthal và người hiện đại có LCA ty thể gần đây hơn dựa trên nghiên cứu và điều tra mtDNA. Điều này chứng tỏ một sự kiện giao phối đã xảy ra sau sự phân tách Neanderthal / Denisova và tạo ra dòng mtDNA mới. Nguyên nhân của sự kiện này có lẽ rằng bởi sự xâm nhập gen từ một loài người cổ xưa chưa được xác lập vào bộ gen người Denisova, [ 89 ] [ 90 ] [ 128 ] [ 133 ] [ 134 ] hoặc sự xâm nhập gen từ một dòng di cư ra khỏi châu Phi của người hiện đại sớm hơn chưa được xác lập vào bộ gen người Neanderthal. [ 135 ]
Phần lớn giới chuyên gia cho rằng H. heidelbergensis là tổ tiên chung cuối cùng của người Neanderthal, người Denisova, và người hiện đại trước khi các quần thể này trở nên biệt lập lần lượt tại châu Âu, châu Á và châu Phi.[137] Cách để phân biệt H. heidelbergensis và người Neanderthal chủ yếu dựa trên khoảng trống hóa thạch ở châu Âu từ 300-243 nghìn năm trước thuộc giai đoạn đồng vị biển 8 (MIS 8, viết tắt của Marine Isotope Stage 8). Theo quy ước, “người Neanderthal” là những hóa thạch có niên đại sau khoảng trống này.[136][22] Tuy nhiên, di cốt 430 nghìn năm tuổi (ka) tại Sima de los Huesos nhiều khả năng là cá thể đại diện cho người Neanderthal sơ khai hoặc một nhóm liên quan mật thiết,[24][138][139] và di cốt Aroeira 3 đã 400.000 năm tuổi có lẽ đại diện cho một giai đoạn tiến hóa chuyển tiếp. Ta phải chú ý rằng hình thái nguyên bản (basal) và phái sinh (derived) hoàn toàn có thể tồn tại đồng thời.[140] Có lẽ từng xảy ra một sự kiện lưu chuyển gen giữa Tây Âu và Châu Phi trong kỷ Pleistocen giữa, làm che khuất đặc điểm Neanderthal ở các mẫu vật thuộc khoảng thời gian này, cụ thể là những mẫu được khai quật từ Ceprano, Ý và hẻm núi Sićevo, Serbia.[24] Bản ghi hóa thạch bắt đầu hoàn chỉnh hơn từ 130.000 năm trước trở đi, và phần lớn di cốt Neanderthal được phát hiện đều có niên đại vào sau thời điểm đó.[142][143] Di tích nha khoa từ các di chỉ Visogliano và Fontana Ranuccio tại Ý chứng tỏ các đặc điểm nha khoa của người Neanderthal đã tiến hóa vào khoảng 450–430 nghìn năm trước trong thời kỳ Pleistocen giữa.[144]
Hiện có hai giả thuyết chính về sự tiến hóa của người Neanderthal hậu kỳ phân tách của họ với người hiện đại, đó là: thuyết hai giai đoạn (two-phase) và thuyết bồi tụ (accretion). Giả thuyết hai giai đoạn cho rằng một đại sự kiện môi trường duy nhất — chẳng hạn như băng kì Saale — đã khiến quần thể H. heidelbergensis ở châu Âu tăng nhanh kích thước và độ chắc khỏe của cơ thể, làm cho hộp sọ dãn ra (giai đoạn 1), rồi dẫn đến những thay đổi tiếp ở hộp sọ (giai đoạn 2).[125] Tuy nhiên cũng phải xét rằng đặc điểm giải phẫu của Neanderthal không hoàn toàn chỉ được thúc đẩy bởi riêng thời tiết lạnh giá.[66] Giả thuyết bồi tụ cho rằng người Neanderthal dần dần tiến hóa theo thời gian từ tổ tiên H. heidelbergensis, và được chia thành 4 giai đoạn: sơ kỳ tiền-Neanderthal (MIS 12, băng kì Elster), tiền-Neanderthal sensu lato (MIS 11-9, gian băng Holstein), người Neanderthal sơ khai (MIS 7–5, băng kì Saale – gian băng Eemian), và người Neanderthal cổ điển sensu stricto (MIS 4–3, băng kì Würm).[136]
Có nhiều ước tính về thời điểm người Neanderthal và người hiện đại phân tách. Thời điểm 250.000 năm trước được đưa ra nếu coi “H. helmei” là tổ tiên chung cuối cùng (LCA), theo đó sự phân tách hai dòng gắn liền với sự xuất hiện của kỹ thuật Levallois để chế tạo công cụ bằng đá. Ước tính 400.000 năm trước lấy H. heidelbergensis làm mốc LCA. Ước tính 600.000 năm trước lấy “H. rhodesiensis” làm mốc LCA, tổ tiên mà phân tách thành nhánh người hiện đại và nhánh người Neanderthal/H. heidelbergensis.[145] Ước tính 800.000 năm trước lấy H. antecessor làm mốc LCA, nhưng cũng có các biến thể của mô hình này tính ra thời điểm 1 triệu năm trước.[24][145] Tuy vậy, phân tích hệ protein men răng của H. antecessor năm 2020 chỉ ra rằng loài này là họ hàng bàng hệ chứ không phải tổ tiên trực hệ.[146] Các nghiên cứu ADN đưa ra nhiều kết quả khác nhau về thời điểm phân tách Neanderthal/người hiện đại, ví dụ như 538–315,[22] 553–321,[147] 565–503,[148] 654–475,[145] 690–550,[149] 765–550,[24][89] 741–317,[150] hoặc 800–520 nghìn năm trước.[151] Ngoài ra một phân tích nha khoa năm 2019 kết luận sự phân tách xảy ra 800.000 năm trước.[23]
Người Neanderthal và người Denisova có quan hệ họ hàng gần gũi với nhau hơn so với người hiện đại, tức là sự phân tách giữa người Neanderthal và Denisova xảy ra sau khi họ chia tách với người hiện đại.[24][89][133][152] Giả sử tỉ lệ đột biến là 1×10−9 hoặc 0.5×10−9 trên mỗi cặp bazơ (bp) mỗi năm, sự phân tách Neanderthal/Denisova xảy ra lần lượt vào khoảng 236–190 hoặc 473–381 nghìn năm trước.[89] Nếu giả thiết 1.1×10−8 mỗi thế hệ mà cứ sau 29 năm lại có thế hệ mới thì thời điểm phân tách cách đây 744.000 năm. Nếu giả thiết 5×10−10 điểm phản ứng nucleotide (nucleotide site) mỗi năm thì thời điểm phân tách cách đây 616.000 năm. Nếu chấp nhận niên đại 616.000 năm thì sự phân tách có lẽ diễn ra trước thời điểm hominin lan rộng khắp châu Âu, và các đặc điểm sinh học của người Neanderthal đã manh nha xuất hiện cách đây 600–500 nghìn năm.[133] Trước khi rẽ nhánh, tổ tiên chung Neanderthal/Denisova (còn gọi là “người Neandersova”) di cư ra khỏi châu Phi vào châu Âu rồi dường như lai tạp với một loài người “siêu thái cổ” chưa xác định đã có mặt ở đó từ trước; loài siêu thái cổ này là hậu duệ của cuộc di cư ra khỏi châu Phi thuở sớm khoảng 1,9 triệu năm trước.[153]
Ta biết rất ít về người tiền-Neanderthal và Neanderthal sơ kỳ sống trước thời kỳ gian băng Eemian ( 130.000 năm trước ), và di cốt của họ đa phần được tìm thấy tại những khu vực phía Tây Âu. Từ thời gian 130.000 năm trước trở đi, chất lượng những mẫu hóa thạch Neanderthal ( cổ xưa ) tốt lên đáng kể, hoàn toàn có thể được tìm thấy tại Tây Âu, Trung Âu, Đông Âu và vùng Địa Trung Hải thuộc châu Âu, [ 25 ] cũng như Tây Nam, Trung và Bắc Á rồi tới tận dãy núi Altay ở miền nam Siberia. Mặt khác, chủ quyền lãnh thổ của người tiền-Neanderthal và Neanderthal sơ kỳ có vẻ như chỉ thu gọn tại Pháp, Tây Ban Nha và Ý, tuy cũng có một số ít tiến ra khỏi ” khu vực lõi ” này để lập những khu tạm cư về phía đông, chưa trọn vẹn thoát khỏi châu Âu. Miền tây nam nước Pháp là nơi có tỷ lệ di chỉ tiền-Neanderthal, Neanderthal sơ kỳ và Neanderthal cổ xưa xum xê nhất. [ 154 ]
Di chỉ Neanderthal cực nam hiện được biết là Hang Shuqba, Levant;[155] các báo cáo về sự hiện diện của Neanderthal tại Jebel Irhoud ở Bắc Phi[156] và Haua Fteah[157] đã được đính chính là H. sapiens. Di chỉ Neanderthal cực đông hiện được biết là hang Denisova, Siberia 85° Đông. Hộp sọ với biệt danh Mã Bá Nhân được tìm thấy tại đông nam Trung Quốc chia sẻ một số đặc điểm hình thái với sọ Neanderthal, mặc dù đây có thể chỉ là kết quả của sự tiến hóa hội tụ chứ chưa chắc người Neanderthal đã mở rộng phạm vi đến Thái Bình Dương.[158] Địa đầu Neanderthal phía bắc thường được chấp nhận là 55° Bắc, với các di chỉ không bàn cãi nằm trong khoảng từ 50° Bắc–53° Bắc song vẫn rất khó để đánh giá chính xác vì sự xâm lấn của băng hà đã tàn phá hầu hết các di tích cổ xưa. Nhà cổ sinh vật học Trine Kellberg Nielsen cho rằng sự thiếu thốn bằng chứng tại Nam Scandinavia (ít nhất là các bằng chứng thuộc kì gian băng Eemian) chính bởi một phần lý do trên.[159][160] Các đồ tạo tác thời đại đồ đá cũ giữa đã được tìm thấy ở 60° Bắc vùng đồng bằng Nga,[161][162][163] nhưng nhiều khả năng chúng là sản phẩm của người tinh khôn.[164] Một nghiên cứu năm 2017 khẳng định chi Homo từng sinh sống tại địa điểm Cerutti Mastodon ở California Bắc Mỹ cách đây 130.000 năm,[165] nhưng bị hầu hết giới khảo cổ bác bỏ.[166][167][168]
Không rõ khí hậu dao động nhanh chóng của thời kỳ băng hà cuối cùng (sự kiện Dansgaard-Oeschger) tác động thế nào đến người Neanderthal, bởi lẽ thời kỳ ấm lên sẽ tạo điều kiện nhiệt độ thuận lợi cho phép rừng cây phát triển và xua đuổi các đàn động vật lớn còn thời kỳ lạnh giá sẽ tạo ra hiệu ứng ngược lại.[169] Tuy vậy, người Neanderthal có lẽ thích nghi với cảnh quan rừng cây hơn.[66] Cỡ quần thể có thể đạt đỉnh trong những khoảng thời gian mà khí hậu không quá lạnh, chẳng hạn như giai đoạn đồng vị biển 8 và 6 (tức là 300 và 191 nghìn năm trước, nằm trong băng kì Saale). Phạm vi sinh sống của người Neanderthal có thể co giãn tùy theo các chu kỳ băng hà tiến thoái bởi họ phải di cư để tránh các tầng băng vĩnh cửu và cư trú tại các refugium trong giai đoạn băng hà cực đại.[169] Vào năm 2021, nhà nhân chủng học Israel Hershkovitz và các đồng nghiệp báo cáo di cốt Nesher Ramla 140-120 nghìn năm tuổi ở Israel có đặc điểm pha trộn giữa người Neanderthal và H. erectus cổ hơn, đại diện cho một quần thể nguồn tái chiếm châu Âu hậu băng kì.[170]
Giống như người hiện đại, người Neanderthal có lẽ xuất thân từ một quần thể cỡ nhỏ với dân số hiệu quả (effective population) – tức số lượng cá thể có thể làm cha mẹ – nằm trong khoảng từ 3.000 đến 12.000. Tuy nhiên dân số người Neanderthal duy trì ở mức rất thấp, làm tăng sinh các gen có hại và yếu bởi thiếu sự hiệu quả của chọn lọc tự nhiên.[79][171] Nhiều nghiên cứu khác nhau sử dụng phân tích ADN ty thể đưa ra các dân số hiệu quả khác nhau,[169] chẳng hạn như khoảng từ 1.000 đến 5.000;[171] từ 5.000 đến 9.000 và không đổi;[172] hoặc từ 3.000 đến 25.000 tăng đều đặn cho đến 52.000 năm trước rồi suy giảm cho đến khi tuyệt chủng.[81] Song tất cả nghiên cứu đều đồng ý dân số của họ rất thấp,[169] ít hơn 1/10 dân số người hiện đại đương thời ở Tây Âu,[173] có lẽ vì tỉ lệ sinh đẻ của người Neanderthal kém hơn.[174] Các ước tính đưa ra tổng số hơn chục nghìn[133] thường bị tranh cãi.[171] Dân số thấp ổn định có thể được giải thích bằng giả thuyết “Bẫy Boserup”: khả năng chịu đựng (carrying capacity) của một quần thể bị giới hạn bởi lượng thực phẩm mà quần thể ấy có thể thu được, điều mà cũng bị giới hạn bởi công nghệ của quần thể ấy. Sự đổi mới (innovation) gia tăng theo dân số, nhưng nếu dân số quá thấp, sự đổi mới sẽ không diễn ra nhanh chóng và dân số sẽ vẫn ở mức thấp. Thuyết này phù hợp với sự đình trệ 150.000 năm mà ta có thể thấy trong kỹ thuật chế tác dụng cụ bằng đá của người Neanderthal.[169]
Trong một mẫu gồm 206 thành viên Neanderthal, dựa trên số lượng lớn thành viên phái mạnh trưởng thành và trẻ tuổi so với những độ tuổi nhân khẩu khác, khoảng chừng 80 % người trên 20 tuổi trong số này chết trước khi đến tuổi 40. tỉ lệ tử trận cao ngất ngưởng này có lẽ rằng là bởi họ sinh sống trong môi trường tự nhiên stress cao. [ 83 ] Tuy nhiên ước tính chỉ ra rằng tháp tuổi của người Neanderthal và người hiện đại đương thời giống hệt nhau. [ 169 ] tỉ lệ tử trận ở trẻ Neanderthal sơ sinh rất cao, khoảng chừng 43 % ở quần thể phía bắc Âu-Á. [ 175 ]
Phân bố địa lý các di chỉ Neaderthal (bằng tiếng Đức)
Trái: địa điểm các di chỉ H. heidelbergensis (cam) và Neaderthal sơ kỳ (vàng)
Phải: địa điểm các di chỉ Neanderthal cổ điển
Người Neanderthal sở hữu cơ thể cường tráng và săn chắc hơn người hiện đại điển hình, [ 70 ] khung xương sườn của họ rộng hơn và hình thùng ; khối chậu của họ cũng rộng hơn ; [ 176 ] cẳng tay và cẳng chân của họ ngắn hơn ( tương đối với khung hình ). [ 66 ] [ 177 ]Dựa trên 45 mẫu xương dài của 14 đàn ông và 7 đàn bà người Neanderthal, chiều cao trung bình của họ là 164 – 168 cm so với nam và 152 – 156 cm so với nữ. [ 70 ] Để so sánh, chiều cao trung bình của 28 nam và 10 nữ người hiện đại hậu kỳ đá cũ lần lượt là 176 cm và 163 cm, mặc dầu chiều cao người hiện đại giảm xuống 10 cm gần cuối quá trình này dựa trên mẫu 21 nam và 15 nữ ; [ 178 ] và chiều cao trung bình của người vào năm 1900 lần lượt là 163 cm và 152,7 cm. [ 179 ] Bản ghi hóa thạch cho thấy người Neanderthal trưởng thành có chiều cao từ 147,5 đến 177 cm, và một số ít hoàn toàn có thể cao hơn thế. [ 180 ] Về cân nặng của người Neanderthal, lấy mẫu 26 cá thể đưa ra những số lượng trung bình là 77,6 kg so với nam và 66,4 kg so với nữ. [ 181 ] Chỉ số khối khung hình của phái mạnh Neanderthal rơi vào tầm 26,9 – 28,2 ; tức thừa cân so với người hiện đại. Điều này chứng tỏ dáng vóc của họ phải rất cường tráng. [ 70 ] Gen LEPR của người Neanderthal chịu nghĩa vụ và trách nhiệm điều tiết lưu trữ chất béo và sản sinh thân nhiệt tựa như gen voi ma mút lông xoăn, đều là những đặc thù thích nghi với khí hậu giá rét. [ 67 ]
Đốt sống cổ của người Neanderthal dài và dày hơn so với (hầu hết) người hiện đại để cân bằng cái đầu với hình dạng khác biệt của họ.[182] Ngực của người Neanderthal (bao gồm lồng ngực) có kích thước tương tự như người hiện đại song các xương sườn dài và thẳng hơn. Điều này nghĩa là phần giữa ngực dưới của họ rộng và phần ngực dưới co giãn khi hít thở mạnh hơn, ngụ ý rằng cơ hoành và dung tích phổi của họ lớn.[176][183][184] Dung tích phổi mẫu vật Kebara 2 được ước tính ở mức 9,04 L (2,39 gal Mỹ), so sánh với dung tích phổi trung bình ở người hiện đại là 6 L (1,6 gal Mỹ) đối với nam và 4,7 L (1,2 gal Mỹ) đối với nữ. Ngực của người Neanderthal căng rộng theo chiều trước-ra-sau. Xương cùng (nơi xương chậu nối với cột sống) nghiêng theo chiều thẳng đứng và ở vị trí thấp hơn so với khung chậu, khiến cho cột sống của họ ít ưỡn hơn và hơi gập vào. Nếu triệu chứng này xuất hiện ở người hiện đại thì được coi là một bất thường với tên gọi xương cụt thắt lưng hóa (lumbarized sacrum).[185] Sự tiến hóa một cột sống như vậy giúp người Neanderthal tăng khả năng gập bên-sang-bên (mediolateral flexion), củng cố tốt hơn phần ngực dưới rộng. Một số học giả cho rằng đặc điểm này khá bình thường đối với chi Homo, ngay cả ở Homo ergaster hoặc Homo erectus của vùng nhiệt đới, và rằng tình trạng ngực hẹp ở hầu hết người hiện đại mới là điểm độc đáo.[176]
tỉ lệ cơ thể của người Neanderthal thường được nhận xét là cực kỳ thích nghi với giá lạnh (hay “hyperarctic”), bởi vì tỉ lệ đó tương tự như các quần thể người hiện đại sống tại vùng khí hậu lạnh[186]—ví dụ như người Yupik Siberi hay người Inuit thuộc H. Sapiens[187]—và chi vận động ngắn hơn giúp họ giữ lại nhiều thân nhiệt hơn.[177][186][188] Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng những người Neanderthal sinh sống ở các đới khí hậu ôn hòa (chẳng hạn như Iberia) vẫn có dáng dấp “hyperarctic”.[189] Vào năm 2019, nhà nhân chủng học người Anh John Stewart và các đồng nghiệp đề xuất rằng đặc điểm bên trên của người Neanderthal thích nghi cho việc chạy nước rút chứ không phải giá lạnh, bởi lẽ bằng chứng cho thấy người Neanderthal thích những khu vực có cây cối ấm áp hơn thảo nguyên voi ma mút lạnh cóng và phân tích ADN cho thấy tỉ lệ sợi cơ co rút nhanh ở người Neanderthal lớn hơn so với người hiện đại. Stewart cho rằng tỉ lệ cơ thể và khối lượng cơ bắp lớn của Neanderthal thích nghi cho việc chạy nước rút trái ngược với vóc dáng thiên về chạy bền của người hiện đại,[66] bởi lối săn mồi bền bỉ chỉ hiệu quả ở những vùng khí hậu nóng, nơi thợ săn bám theo con mồi cho tới khi nó kiệt sức bởi sự tăng thân nhiệt. Người Neanderthal có xương gót chân dài hơn,[190] giảm khả năng chạy bền và các chi ngắn hơn của họ làm giảm chiều dài cánh tay đòn ở các chi, cho phép họ tạo lực quay lớn hơn ở cổ tay và mắt cá chân mà không cần gắng sức các cơ xoay ở khuỷu tay và đầu gối bằng cách tăng tốc độ rút cơ, tạo gia tốc lớn hơn.[66] Năm 1981, nhà cổ nhân học người Mỹ Erik Trinkaus để ý đến lời giải thích này nhưng cho rằng nó không quá thuyết phục.[177][191]
[192]Phục dựng một người phụ nữ Neanderthal
Người Neanderthal có cằm thẳng, trán dốc và mũi nhô, nằm ở vị trí cao hơn trên mặt so với hầu hết người hiện đại. Hộp sọ Neanderthal thường dài hơn và không quá tròn như hầu hết người hiện đại, và búi chẩm (occipital bun) của họ có vẻ nhô rõ hơn,[193] đặc điểm này tuy vậy cũng không hiếm ở loài người hiện đại. Sở dĩ có cái búi này là bởi nền sọ và xương thái dương của họ ở vị trí cao hơn và nằm gần hơn về phía trước của hộp sọ, kết hợp với một mái sọ phẳng hơn.[194] Mắt của họ to hơn, thích nghi với môi trường ánh sáng yếu.[195]
Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng đặc điểm mũi to và các xoang cạnh mũi (paranasal sinuses) của người Neanderthal phục vụ chức năng làm ấm và giữ độ ẩm không khí hít vào phổi (còn gọi là giả thuyết “mũi tản nhiệt”);[196] Nếu mũi của họ rộng hơn, nó sẽ khác với hình dạng mũi thu hẹp của các sinh vật thích nghi với khí hậu lạnh, và nếu thực là vậy thì đặc điểm mũi to đây được sinh ra từ hiện tượng phiêu bạt di truyền chứ không phải thích nghi với giá rét. Hơn nữa các xoang mũi được phục dựng rộng song không quá lớn, tương đương với kích thước ở người hiện đại. Tuy vậy nếu kích thước xoang không phải yếu tố quan trọng thích nghi với hít thở không khí lạnh, thì chức năng thực sự của chúng không rõ ràng, do đó đặc điểm này có lẽ không phải một chỉ báo tốt về áp lực tiến hóa của một chiếc mũi như vậy.[197] Ngoài ra, phỏng dựng bằng máy tính chiếc mũi và các mô mềm của người Neanderthal cho thấy nhiều điểm tương đồng với mũi của các dân tộc sống ở Bắc Cực hiện đại, vì vậy rất có thể mũi của hai quần thể đã tiến hóa hội tụ để hít thở không khí khô lạnh.[68]
Phục dựng một già lão Neanderthal
Thể tích sọ Neanderthal trung bình vào tầm 1.640 cc so với nam và 1.460 cc so với nữ, [ 72 ] [ 73 ] nằm trong khoanh vùng phạm vi khả dĩ của người hiện đại. [ 198 ] Để so sánh, thể tích sọ người hiện đại thời nay trung bình vào khoảng chừng 1.270 cm3 ( 78 in khối ) so với nam và 1.130 cm3 ( 69 in khối ) so với nữ. [ 199 ] Đối với 28 thành viên người hiện đại từ khoảng chừng 190 – 25 nghìn năm trước, thể tích sọ trung bình rơi vào tầm 1.478 cm3 ( 90,2 in khối ) bất kể giới tính ( kích cỡ não người hiện đại có khuynh hướng teo nhỏ từ thời đá cũ muộn ). [ 200 ] Bộ não Neanderthal lớn nhất hiện được biết là Amud 1, với thể tích ước đạt 1.736 cm3 ( 105,9 in khối ), và đây cũng là một trong những bộ não lớn nhất được ghi nhận ở họ Người. [ 73 ] Thể tích sọ trẻ sơ sinh Neanderthal và trẻ sơ sinh người hiện đại đều vào lúc 400 cm3 ( 24 in khối ). [ 201 ]
Hộp sọ Neanderthal dãn dài gần như hình bầu dục. Thùy đỉnh và tiểu não của họ bé hơn người hiện đại,[74][75][76][78][202] đây là các phân khu đảm nhận chức năng sử dụng công cụ,[203] tích hợp không gian trực quan,[204] tính toán,[205] sáng tạo,[206] hình thành khái niệm cao cấp,[207] trí nhớ cơ bắp, và có lẽ đảm nhận cả các chức năng ngôn ngữ, chú ý, trí nhớ làm việc, xã giao và trí nhớ từng hồi. Thùy chẩm của người Neaderthal rất lớn, góp phần tạo nên búi chẩm ở hộp sọ và nhiều khả năng là đặc điểm thích nghi với điều kiện ánh sáng thấp ở châu Âu bấy giờ. Điều này ngoài ra cũng ngụ ý sự khác biệt nội tại về tỉ lệ tương quan giữa các vùng nội-não so với Homo sapiens, phù hợp với các phép đo ngoại tại thu được từ các hộp sọ hóa thạch.[195][208] Não của họ sở hữu cực thùy thái dương lớn hơn,[202] vỏ não trán-ổ mắt rộng hơn,[209] và hành khứu giác lớn hơn[210] so với người hiện đại, biểu hiện sự chênh biệt khả dĩ ở khả năng hiểu ngôn ngữ và liên hệ cảm xúc (chức năng của thùy thái dương), sự ra quyết định (chức năng của vỏ não trán-ổ mắt), và khả năng ngửi mùi (chức năng của hành khứu giác). Tốc độ tăng trưởng não ở người Neanderthal cũng khác biệt so với người hiện đại.[211] Những chênh lệch như vậy tuy rất nhỏ nhoi song chúng rất đáng kể dưới áp lực chọn lọc tự nhiên, điều này có thể đóng vai trò cơ sở để giải thích những khác biệt về mặt vật chứng của hành vi xã hội, đổi mới công nghệ và sản phẩm nghệ thuật giữa hai loài người.
Màu da sắc tóc[sửa|sửa mã nguồn]
Người Neanderthal sống ở các vĩ tuyến phía bắc thiếu ánh sáng mặt trời nên rất có thể làn da của họ đã phát triển sáng màu.[212] Về mặt di truyền, người Neanderthal sở hữu gen BNC2 liên quan đến màu da sáng; song một biến thể BNC2 liên quan đến màu da sẫm cũng xuất hiện ở các quần thể hiện đại theo Ngân hàng sinh học Vương quốc Anh (UK Biobank).[212] Phân tích ADN của 3 phụ nữ Neanderthal từ đông nam châu Âu cho thấy họ có mắt nâu và da sẫm; trong đó 2 người tóc nâu còn 1 người tóc đỏ.[213][214]
Ở người hiện đại, sắc tố của tóc và da được điều hòa bởi hoóc-môn kích thích tế bào hắc tố — làm tăng tỉ lệ eumelanin ( hắc tố ) so với phaeomelanin ( hồng tố ) — được mã hóa bởi gen MC1R. Có 5 biến thể của gen này hiện hữu ở người hiện đại gây ra sự mất công dụng và có tương quan đến màu tóc và da sáng, ngoài những còn một biến thể khác chưa được hiểu rõ Open ở người Neanderthal ( biến thể R307G ), có lẽ rằng tương quan đến màu da nhợt nhạt và tóc đỏ. Biến thể R307G được xác lập ở một người Neanderthal từ Monti Lessini, Ý, và chưa chắc như đinh từ Cueva del Sidrón, Tây Ban Nha. [ 215 ] Song giống như người hiện đại, màu tóc đỏ Neanderthal có lẽ rằng cũng không phổ cập vì R307G hiếm khi Open ở những mẫu gen Neanderthal được giải trình tự. [ 212 ]
Trao đổi chất[sửa|sửa mã nguồn]
Tuổi thọ tự nhiên tối đa và thời hạn trưởng thành, mãn kinh và thai nghén của họ nhiều năng lực giống hệt người hiện đại. [ 169 ] Dựa trên vận tốc tăng trưởng của răng và men răng, [ 216 ] [ 217 ] 1 số ít nhà điều tra và nghiên cứu cho rằng người Neanderthal trưởng thành nhanh hơn người hiện đại tuy nhiên những dấu ấn sinh học tuổi tác lại không ủng hộ giả thuyết này. [ 83 ] Sự độc lạ chính trong quy trình trưởng thành là đốt đội ở cổ và đốt sống ngực giữa của người Neanderthal hợp nhất muộn hơn khoảng chừng 2 năm so với người hiện đại, tuy nhiên hiện tượng kỳ lạ này có lẽ rằng gây ra bởi sự độc lạ giải phẫu chứ không phải sự độc lạ vận tốc tăng trưởng. [ 218 ] [ 219 ]Nói chung, những quy mô giả thuyết về nhu yếu ca-lo của người Neanderthal tính ra lượng tiêu thụ cao hơn đáng kể so với người hiện đại dựa trên giả thiết cho rằng người Neanderthal có tỉ lệ trao đổi chất cơ bản ( BMR ) cao hơn do khối lượng cơ lớn hơn, vận tốc sinh trưởng nhanh hơn và sản sinh thân nhiệt nhiều hơn để chống lạnh ; [ 220 ] [ 221 ] [ 222 ] và giả thiết mức độ hoạt động giải trí sức khỏe thể chất hàng ngày ( PAL ) cao hơn do họ phải vận động và di chuyển tiếp tục hơn để kiếm thức ăn. [ 221 ] [ 222 ] Tuy nhiên nếu ta đồng ý những điều đó là đúng, nhà khảo cổ người Mỹ Bryan Hockett ước tính rằng một phụ nữ Neanderthal mang thai sẽ phải tiêu thụ 5.500 ca-lo mỗi ngày, phải chịu ràng buộc vào thịt mồi lớn ; một chính sách ăn như vậy sẽ gây thiếu vắng hoặc ngộ độc chất dinh dưỡng, vì thế ông Tóm lại rằng những giả định trên thiếu tính thiết thực. [ 222 ]Người Neanderthal có lẽ thường hoạt động giải trí trong điều kiện kèm theo ánh sáng yếu hơn là ánh sáng chói chính bới họ sống ở những vùng ban ngày ngắn, săn những con mồi lớn ( săn vào đêm hôm để mai phục tốt hơn ), và có đôi mắt và những TT thần kinh giải quyết và xử lý thị giác lớn. Về mặt di truyền, mù màu ( thường giúp sinh vật tăng cường năng lực thị giác trung gian sáng tối ) thường đối sánh tương quan với những quần thể ở vĩ độ phía bắc. Người Neanderthal từ hang Vindija ở Croatia có một số ít độc lạ ở gen Opsin có vẻ như ảnh hưởng tác động đến thị lực màu, tuy nhiên ta thực sự vẫn chưa rõ tính năng của những độc lạ này. [ 223 ] Các alen có nguồn gốc từ người Neanderthal gần ASB1 và EXOC6 thường có liên hệ với những người sống về đêm ( hay ” cú đêm ” ), chứng ngủ rũ và ngủ ban ngày. [ 212 ]
Bệnh lý học[sửa|sửa mã nguồn]
Tỉ lệ người Neanderthal chịu những chấn thương về xương khá cao, trong đó : 79 – 94 % vật mẫu có những vết chấn thương lớn đã lành, 37 – 52 % vật mẫu chịu chấn thương nặng, và 13 – 19 % vật mẫu bị thương trước khi trưởng thành. [ 224 ] Một ví dụ bị chấn thương cực kỳ nghiêm trọng là mẫu Shanidar 1 : tay phải có tín hiệu bị cắt cụt vì xương tay không liền lại sau khi gãy ở tuổi vị thành niên, xương đòn bên trái bị viêm tủy, xương chân bất đối xứng khiến dáng đi khập khiễng, hốc mắt trái có yếu tố, và thính giác có vẻ như đã mất [ 225 ] ( có lẽ rằng do bị viêm tai ngoài ). [ 226 ] Năm 1995, Trinkaus ước tính khoảng chừng 80 % cá thể chống chọi không nổi những thương tật và chết trước tuổi 40 ; dựa vào đó ông đưa ra giả thuyết người Neanderthal vận dụng kế hoạch săn mồi rất mạo hiểm ( giả thuyết ” rodeo rider ” ). [ 83 ] Tuy nhiên, tỉ lệ chấn thương sọ não không độc lạ đáng kể giữa người Neanderthal và người hiện đại trung kỳ đá cũ ( tuy nhiên có vẻ như như tỉ lệ tử trận của người Neanderthal vẫn cao hơn ), [ 227 ] thực sự thì có rất ít vật mẫu người hiện đại hậu kỳ đá cũ và người Neanderthal chết sau tuổi 40, [ 174 ] và kiểu mẫu tổn thương của cả hai chủng người tựu trung rất giống nhau. Vào năm 2012, Trinkaus Kết luận rằng người Neanderthal bị thương do xung đột nội bầy hoặc với những bầy khác. [ 228 ] Một điều tra và nghiên cứu xem xét 124 vật mẫu Neanderthal năm năm nay Kết luận rằng nguyên do họ có tỉ lệ chấn thương cao như vậy là bởi họ đụng độ liên tục với những loài dã thú. Các nhà nghiên cứu phát hiện khoảng chừng 36 % vật mẫu là nạn nhân bị gấu tiến công, 21 % vật mẫu đã bị đại miêu tiến công và 17 % vật mẫu đã bị sói tiến công ( tổng số có 92 trường hợp dương thế, tức 74 % ). Không trường hợp nào bị linh cẩu tiến công, mặc dầu chúng đủ năng lực săn người Neanderthal, tối thiểu là theo thời cơ. [ 229 ] Điều này có lẽ rằng xuất phát từ những cuộc cạnh tranh đối đầu thức ăn và hang động, và bởi lẽ người Neanderthal thường săn bắt những loài thú đó. [ 229 ]
Dân số thấp đồng nghĩa tương quan với sự phong phú di truyền thấp và khiến rủi ro tiềm ẩn giao phối cận huyết tăng, điều mà góp thêm phần làm giảm năng lực chắt lọc đột biến có hại ( thoái hóa giống ). Tuy nhiên, ta vẫn chưa rõ điều này ảnh hưởng tác động thế nào đến gánh nặng di truyền của một thành viên Neanderthal đơn độc, và do đó, ta chưa rõ tỷ suất dị tật bẩm sinh của họ có cao hơn người hiện đại hay không. [ 230 ] Song điều mà ta dám chắc đó là 13 dân cư tại Hang Sidrón bộc lộ 17 dị tật bẩm sinh khác nhau, có lẽ rằng là hậu quả của giao phối cận huyết hoặc bệnh di truyền. [ 231 ] Mẫu vật La Chapelle-aux-Saints 1 có tín hiệu bị bệnh Baastrup, một loại bệnh tác động ảnh hưởng đến cột sống và gây viêm xương khớp, chính do cá thể này có lẽ rằng đã khá cao tuổi ( tầm thập niên 60-70 ). [ 232 ] Mẫu vật Shanidar 1 ( mất vào khoảng chừng năm 30-40 tuổi ) được chẩn đoán mắc hội chứng tăng tạo xương lan tỏa nguyên phát ( DISH ), đây là trường hợp được ghi nhận cổ xưa nhất của căn bệnh thoái hóa gây cản trở cử động này ; nếu đúng mực, sẽ là vật chứng cho thấy tần suất tai nạn thương tâm ở người Neanderthal lớn tuổi khá cao. [ 233 ]
Người Neanderthal có thể mắc nhiều loại bệnh truyền nhiễm và là vật chủ của nhiều loài ký sinh trùng. Bệnh truyền nhiễm ở người hiện đại có thể lây sang người Neanderthal; đơn cử là loài vi khuẩn dạ dày Helicobacter pylori.[234] Biến thể 16A của virus gây u nhú ở người hiện đại dường như là hệ quả của sự xâm nhập gen Neanderthal.[235] Một cá nhân Neanderthal tại Cueva del Sidrón ở Tây Ban Nha được chẩn đoán nhiễm khuẩn đường tiêu hóa Enterocytozoon bieneusi.[236] Xương chân của mẫu La Ferrassie 1 bị viêm màng—tức tình trạng viêm mô bao bọc xương—hậu quả của xương khớp phì đại với nguyên nhân chủ yếu là nhiễm trùng ngực hoặc ung thư phổi.[237] Người Neanderthal có tỷ lệ sâu răng thấp hơn người hiện đại, mặc dù một số quần thể tiêu thụ thực phẩm gây sâu răng với số lượng lớn; điều này dường như chứng tỏ miệng họ thiếu các loài vi khuẩn gây sâu răng, ví dụ Streptococcus mutans.[238]
Hai đứa trẻ Neanderthaloid 250.000 tuổi ở Payré, Pháp, là hai trường hợp homonid sớm nhất được biết bị ngộ độc chì. Chúng hấp thụ chì vào hai thời gian khác nhau do ăn phải thực phẩm bẩn hoặc uống phải nước bẩn hoặc hít phải khói lửa chứa chì. Hai mỏ chì đã được tìm thấy trong khoanh vùng phạm vi 25 km ( 16 mi ) quanh khu vực khai thác. [ 239 ]
Động lực quần thể[sửa|sửa mã nguồn]
Người Neanderthal sống thành những bầy nhỏ phân bổ thưa thớt hơn so với người hiện đại đương thời. [ 169 ] Mỗi bầy có trung bình từ 10-30 thành viên, tựa như những bộ lạc săn bắt hái lượm hiện đại. [ 32 ] Bằng chứng đáng an toàn và đáng tin cậy về thành phần bầy của người Neanderthal được tìm thấy tại Cueva del Sidrón, Tây Ban Nha : 7 người lớn, 3 thanh thiếu niên, 2 vị thành niên và 1 trẻ sơ sinh ; [ 240 ] và những dấu chân tại Le Rozel, Pháp : [ 180 ] dựa trên size bàn chân, cho thấy bầy này có 10-13 thành viên với độ tuổi vị thành niên và thanh thiếu niên chiếm 90 %. [ 180 ]Phân tích răng một đứa bé Neanderthal vào năm 2018 cho thấy nó cai sữa sau 2,5 năm, tựa như như những người săn bắt hái lượm hiện đại, và nó được sinh ra vào mùa xuân, tương tự như như người hiện đại và những loài thú có chu kỳ luân hồi sinh trùng chu kỳ luân hồi môi trường tự nhiên. [ 239 ] Dựa trên những bệnh lý ở độ tuổi nhỏ gây ra bởi sự stress ví dụ điển hình như thấp còi, nhà khảo cổ người Anh Paul Pettitt cho rằng trẻ nhỏ cả hai giới phải lao động ngay sau khi cai sữa. [ 175 ] Trinkaus chứng minh và khẳng định rằng khi người Neanderthal đến tuổi vị thành niên, chúng sẽ gia nhập những nhóm săn bắt những con mồi lớn và nguy hại. [ 83 ] Tuy vậy chấn thương xương của Neanderthal có nhiều điểm tương đương với người Inuit hiện đại, điều này có lẽ rằng chỉ ra rằng thời thơ ấu của người Neanderthal và người hiện đại đương thời không khác nhau mấy. [ 241 ] Hơn nữa, thực trạng còi cọc như vậy hoàn toàn có thể xảy ra do nguyên do khác ví dụ điển hình như mùa đông khắc nghiệt hoặc hết sạch thức ăn. [ 239 ]Những di chỉ chứa không quá ba cá thể có lẽ rằng đại diện thay mặt cho những mái ấm gia đình hạt nhân hoặc những trại tạm bợ lập bởi những nhóm đi săn. [ 32 ] Họ có lẽ rằng vận động và di chuyển giữa những hang động nhất định theo mùa và quay trở lại nơi cũ từ thế hệ này sang thế hệ khác, dựa trên những di vật theo mùa đã được phát hiện ( thực phẩm, v.v ). Một số di chỉ được sử dụng liên tục trong 100 năm. [ 242 ] Gấu hang có lẽ thường xuyên đụng độ với người Neanderthal để tranh giành hang động, vì quần thể gấu hang mở màn suy giảm từ 50.000 năm trước trở đi ( mặc dầu chúng tuyệt chủng sau người Neanderthal ). [ 243 ] [ 244 ] Người Neanderthal thường chiếm những hang động làm nơi ở tuy nhiên ta đã tìm thấy vật chứng về những khu định cư ngoài trời gần mạng lưới hệ thống hang động có người sinh sống đương thời ở Levant, cho thấy họ đổi khác luân phiên giữa hai nơi chốn này. Địa điểm ‘ Ein Qashish tại Israel và Moldova I ở Ukraine là ví dụ tiêu biểu vượt trội cho những khu định cư ngoài trời lâu dài hơn của người Neanderthal. [ 245 ] [ 246 ] Tuy đúng là người Neanderthal có vẻ như có năng lực sống sót ở nhiều kiểu thiên nhiên và môi trường — gồm đồng bằng và cao nguyên — nhiều người cho rằng những di chỉ ngoài trời chỉ là nơi giết mổ làm thịt của họ chứ chưa phải khoảng trống sống. [ 82 ]
Quan hệ ngoại bầy[sửa|sửa mã nguồn]
Nhà dân tộc bản địa học khảo cổ người Canada Brian Hayden đo lường và thống kê để một quần thể có năng lực tự duy trì ( tức để tránh giao phối cận huyết ) thì nó phải gồm 450 – 500 thành viên, điều này yên cầu những bầy Neanderthal phải tương tác với 8 – 53 bầy khác ( ước tính lớn có độ đúng mực cao hơn do tỷ lệ dân số của họ thấp ). [ 32 ] Phân tích ADN ty thể ( loại ADN chỉ truyền theo dòng mẹ ) của người Neanderthal ở Cueva del Sidrón, Tây Ban Nha, cho thấy 3 người đàn ông trưởng thành thuộc cùng một dòng mẹ nhưng 3 người phụ nữ trưởng thành lại thuộc những dòng mẹ khác nhau. Phát hiện này chứng tỏ sau khi cưới gả con gái phải sống với chồng. [ 247 ] Hệ số giao phối cận huyết dựa trên ADN của một phụ nữ Neanderthal từ Hang Denisova là 1 ⁄ 8 ( tức cha mẹ cô là anh chị em cùng mẹ khác cha ; hoặc anh chị em họ tiên phong có cùng ông bà hai bên ; hoặc chú và cháu gái ; hoặc dì và cháu trai ; hoặc ông và cháu gái ; hoặc bà và cháu trai ). [ 89 ] Cư dân Neaderthal tại Cueva del Sidrón bộc lộ một số ít khiếm khuyết dị tật có lẽ rằng gây ra bởi rối loạn cận giao hoặc sự thể hiện gen lặn. [ 231 ]
Bởi lẽ hầu hết đồ tạo tác Neanderthal xuất xứ không quá 5 km (3,1 mi) tính từ khu định cư chính, Hayden cho rằng các bầy người Neaderthal rất hiếm khi tương tác với nhau.[32] Bản đồ não, quy mô bầy nhỏ và mật độ dân số thấp của người Neanderthal chỉ ra rằng họ ít có khả năng tương tác và thương mại với các bầy bên ngoài.[195] Tuy nhiên vẫn có nhiều đồ tạo tác Neanderthal xuất xứ cách tận 20, 30, 100 và 300 km, nên Hayden suy đoán rằng họ có khả năng tổ chức thành các nhóm lớn (macro-band) giống như các xã hội săn bắt hái lượm mật độ thấp ở Sa mạc Tây Úc. Lãnh thổ của một nhóm lớn bao phủ tầm 13.000 km2 (5.000 dặm vuông Anh) với mỗi bầy lẻ chiếm 1.200–2.800 km2 (460–1.080 dặm vuông Anh), duy trì mối liên minh chặt chẽ để giúp đỡ lẫn nhau, giao phối hoặc đối phó kẻ thù.[32] Nhà nhân học người Anh Eiluned Pearce và nhà khảo cổ người Síp Theodora Moutsiou cho rằng người Neanderthal có khả năng hình thành các nhóm dân tộc ngôn ngữ (ethnolinguistic tribes) rộng lớn về mặt địa lý bao gồm 800 thành viên dựa trên bằng chứng người Neanderthal có khả năng vận chuyển đá vỏ chai cách khu định cư tận 300 km (190 mi), rồi so sánh với xu hướng tương quan giữa cỡ bộ lạc hiện đại và khoảng cách vận chuyển đá vỏ chai. Theo mô hình của họ, người Neanderthal không thể duy trì mạng lưới đường dài hiệu quả như người hiện đại, có lẽ bởi dân số họ thấp hơn đáng kể.[248] Hayden ghi nhận một khu mộ gồm 6 hoặc 7 cá nhân tại La Ferrassie, Pháp, có lẽ là bằng chứng cho thấy các bầy Neanderthal hợp tác với nhau duy trì bản sắc xã hội riêng biệt và kiểm soát một số tài nguyên, thương mại, sản xuất, v.v. Bên lề, La Ferrassie nằm trên đường di cư của nhiều loài động vật phong phú tại châu Âu vào thế Canh Tân.[32]
[81]Về mặt di truyền, người Neanderthal hoàn toàn có thể được chia làm ba vùng địa lý chính ( bên trên ) .
Phân tích di truyền chia người Neanderthal thành 3 nhóm địa lý riêng biệt: Tây Âu, bờ biển Địa Trung Hải và phía đông Kavkaz.[81] Đồ đá Moustier hậu-Eemian ở Tây Âu có thể được chia tiếp thành 3 vùng riêng biệt: truyền thống Acheul thuộc Moustier ở phía tây nam, truyền thống Micoque ở phía đông bắc và công cụ ghè hai mặt Moustier (Moustier bifacial tool hay MBT) xen hai vùng đó. MBT có lẽ là sự hỗn dung giữa hai nền kỹ nghệ khác nhau.[80] Người Neanderthal phương Nam có chút ít sự khác biệt giải phẫu so với người Neanderthal phương Bắc: hàm ít nhô hơn, kẽ hở ngắn hơn phía sau răng hàm và xương hàm cao hơn theo chiều dọc.[249] Tất cả những điều này cho thấy bầy Neanderthal thường xuyên tiếp xúc với các bầy sống lân cận nhưng hiếm khi gặp những bầy xa hơn.[80]
Ta cũng đã tìm được vật chứng về những cuộc di cư xuyên lục địa quy mô lớn của người Neanderthal. Các vật mẫu truyền kiếp từ hang Mezmaiskaya tại dãy Kavkaz [ 134 ] và hang Denisova tại dãy núi Altay Siberia [ 87 ] độc lạ về mặt di truyền so với những vật mẫu ở Tây Âu, nhưng những vật mẫu có tuổi gần đây hơn từ chính những hang đó lại chiếm hữu cấu trúc gen giống với những mẫu Tây Âu hơn những mẫu truyền kiếp tại cùng khu vực, chứng tỏ đã có một sự di cư tầm xa và sự sửa chữa thay thế dân số theo thời hạn. [ 87 ] [ 134 ] Tương tự, đồ tạo tác và ADN từ những hang Chagyrskaya và Okladnikov, cũng thuộc dãy Altay, giống với đồ tạo tác của người Neanderthal ở Đông Âu cách đó tầm 3.000 – 4.000 km ( 1.900 – 2.500 mi ) hơn là những đồ tạo tác và ADN của người Neanderthal cổ hơn từ Hang Denisova, ý niệm rằng từng có 2 sự kiện di cư độc lập vào Siberia. [ 250 ] Dân số Neanderthal có vẻ như bị sụt giảm trong quy trình tiến độ MIS 4 ( 71 – 57 nghìn năm trước ), và sự phân bổ của truyền thống cuội nguồn Micoquian chỉ ra rằng người Neanderthal đã tái chiếm Trung Âu và Kavkaz từ một refugium ở miền đông nước Pháp hoặc Hungary ( biên rìa của truyền thống cuội nguồn Micoquian ) bằng cách men theo dòng Prut và Dniester. [ 251 ]Ta cũng đã tìm được dẫn chứng về những xung đột giữa những bầy : một tro cốt từ La Roche à Pierrot, Pháp có một vết nứt đã lành trên đỉnh hộp sọ, có vẻ như gây ra bởi một vết thương lưỡi sâu ; [ 252 ] và một tro cốt khác từ Hang Shanadir, Iraq, có một tổn thương xương sườn đặc trưng của vết đâm mũi phóng. [ 253 ]
Có quan điểm cho rằng chính bới người Neanderthal sống theo bầy đàn và săn những thú mồi rất lớn, nên họ không có sự phân công giới tính trong lao động như ở những xã hội săn bắt hái lượm hiện đại. Điều này nghĩa là đàn ông, đàn bà và trẻ nhỏ đều phải tham gia săn bắt, chứ không có chuyện đàn ông săn bắt còn đàn bà hái lượm. Song điều tra và nghiên cứu của Brian Hayden chỉ ra rằng nếu một xã hội săn bắt hái lượm hiện đại càng phụ thuộc vào vào thịt thì sự phân công lao động lại càng rõ ràng. [ 32 ] Nghiên cứu nha khoa Neanderthal phát hiện răng ở hàm trên của đàn ông thường có nhiều vết xước nhưng đàn bà lại thường bị xước ở những răng của hàm dưới. Điều này ý niệm một sự phân công lao động nào đó giữa hai giới. [ 254 ]
Săn bắt và hái lượm
[sửa|sửa mã nguồn]
Người Neanderthal từng được coi là động vật hoang dã ăn xác thối nhưng những nghiên cứu và điều tra giờ đây cho rằng họ là động vật hoang dã ăn thịt đầu bảng. [ 255 ] [ 256 ] Năm 1980, người ta đưa ra giả thuyết rằng hai đống hộp sọ voi ma mút ở La Cotte de St Brelade, Jersey nằm dưới chân một hẻm núi là dẫn chứng người Neanderthal xua voi ma mút chạy loạn ngã xuống vực, [ 257 ] nhưng điều này hiện đang bị tranh cãi. [ 258 ] Người Neanderthal sống trong môi trường tự nhiên rừng cây có lẽ rằng săn mồi theo cách mai phục, tiếp cận rồi đâm chớp nhoáng mũi giáo vào tiềm năng ở khoảng cách gần. [ 66 ] [ 259 ] Họ săn những con mồi nhỏ hơn hoặc bị thương bằng cách dùng bẫy, dùng mũi phóng hoặc rượt đuổi. [ 259 ] Người Neaderthal hoàn toàn có thể thích nghi với nhiều kiểu môi trường tự nhiên sống, [ 258 ] và do vậy chính sách ăn đa phần của người Neaderthal nhờ vào trọn vẹn vào quần động vật hoang dã sinh sống quanh họ. Ví dụ, những hội đồng trên thảo nguyên ( ngoại vi vùng Địa Trung Hải ) phần nhiều chỉ tiêu thụ thịt từ những con mồi lớn, những hội đồng trong rừng thì tiêu thụ nhiều loại thực vật và động vật hoang dã nhỏ, những hội đồng ven sông thì tiêu thụ nguồn thủy hải sản dồi dào. Ngược lại, người hiện đại thời đó có vẻ như vận dụng nhiều loại kế hoạch khai thác tài nguyên hơn và nhìn chung có chính sách siêu thị nhà hàng phong phú hơn người Neaderthal. [ 260 ] Tuy nhiên, người Neanderthal vẫn phải có chính sách ăn đủ chất để ngăn ngừa suy dinh dưỡng và ngộ độc protein, đặc biệt quan trọng là vào mùa đông khi họ hầu hết ăn thịt nạc. Vì vậy, một phần không hề thiếu trong chính sách ăn của người Neanderthal là những loại thực phẩm bổ trợ dưỡng chất ngoài thịt nạc như óc voi ma mút giàu chất béo, [ 42 ] những loại củ rễ dồi dào và giàu carbohydrate, [ 261 ] hoặc phần lòng bụng và dạ dày của những con mồi ăn cỏ giống như chính sách ăn của người Inuit hiện đại. [ 262 ]
Họ dường như chủ yếu tiêu thụ thịt từ thú có móng, cụ thể là hươu đỏ và tuần lộc.[46] Ngoài ra, họ cũng săn các loài động vật thế Canh Tân khác như sơn dương, lợn rừng, bò rừng châu Âu, voi ma mút, voi ngà thẳng, tê giác lông mượt, v.v.[47][263] Ta có bằng chứng về việc họ săn bắt và mổ thịt các loài gấu hang và gấu nâu, cả trong thời kỳ chúng ngủ đông và không ngủ đông.[264] Phân tích collagen xương của người Neanderthal từ Hang Vindija, Croatia, cho thấy hầu hết nhu cầu protein của họ đều được lấy từ thịt động vật.[47] Một số hang động có bằng chứng về việc họ tiêu thụ thường xuyên thỏ và rùa. Tại các di chỉ ở Gibraltar, di cốt của 143 loài chim khác nhau đã được tìm thấy, bao gồm nhiều loài chim mặt đất như cút thường, Crex crex, sơn ca rừng và sơn ca mào. Người Neanderthal lội hoặc lặn để tìm động vật có vỏ ven biển tại bán đảo Iberia, Ý và Peloponnesos;[265][266] bằng chứng về điều này có niên đại sớm nhất vào khoảng 150.000 năm trước tại Cueva Bajondillo, Tây Ban Nha, tương tự như bằng chứng niên đại người hiện đại bắt cá.[267] Tại Hang Vanguard, Gibraltar, cư dân Neaderthal tiêu thụ thịt hải sản như hải cẩu thầy tu Địa Trung Hải, cá heo mỏ ngắn, cá heo mũi chai, cá ngừ vây xanh Đại Tây Dương, cá tráp và nhím biển tím;[268] và tại Gruta da Figueira Brava, Bồ Đào Nha, ta đã tìm thấy bằng chứng họ thu hoạch động vật có vỏ, cua và cá trên quy mô lớn.[269] Bằng chứng về việc người Neanderthal đánh bắt cá hồi, cá hàng chài và lươn tại vùng nước ngọt đã được tìm thấy ở Grotte di Castelcivita, Ý;[266] đánh bắt cá hàng chài và cá pecca châu Âu tại Abri du Maras, Pháp; tại Payré, Pháp;[270] và đánh bắt cá hồi Biển Đen tại Hang Kudaro, Nga.[271]
Dấu tích thực vật và nấm ăn được người Neanderthal tiêu thụ đã được ghi nhận tại 1 số ít hang động. [ 49 ] Tại Cueva del Sidrón, Tây Ban Nha, người Neanderthal có chính sách ăn không thịt mà chỉ gồm có nấm, hạt thông, và rêu, dựa trên nghiên cứu và phân tích cao răng. [ 236 ] Dấu tích từ hang Amud, Israel, cho thấy người Neanderthal tiêu thụ sung, quả cọ, nhiều loại hạt cốc và cỏ ăn được. [ 50 ] Một số chấn thương ở khớp chân của một số ít vật mẫu có vẻ như ý niệm thói quen ngồi xổm khi thu lượm thức ăn ở người Neanderthal. [ 272 ] Cao răng từ Grotte de Spy, Bỉ, cho thấy dân cư Neanderthal tại đó tiêu thụ thịt tê giác lông mượt và cừu mouflon, đồng thời tiếp tục ăn nấm. [ 236 ] Phân Neanderthal hóa thạch 50.000 năm tuổi từ El Salt, Tây Ban Nha ( hiện là phân người cổ nhất được ghi nhận ) cho thấy chính sách ăn của họ đa phần là thịt cùng chút ít thực vật. [ 273 ] Cư dân Neanderthal ở Hang Kebara nấu đậu và hạt thông ; họ có vẻ như hái lượm thực vật vào mùa xuân và mùa thu, săn bắt vào tổng thể những mùa trừ mùa thu, và có vẻ như đổi hang vào cuối mùa hạ đầu mùa thu. [ 40 ] Tại động Shanidar ở Iraq, người Neanderthal luôn quay lại một khu vực nhất định vào cùng thời gian để hái lượm thực vật, dẫn chứng rằng họ chiếm hữu hành vi tích lũy thức ăn phức tạp. [ 48 ]
Chế biến thức ăn[sửa|sửa mã nguồn]
Người Neanderthal có lẽ rằng biết một số ít kỹ thuật nấu ăn ví dụ điển hình như quay, làm nóng hoặc đun sôi súp, món hầm hoặc nước cốt. [ 44 ] Các mảnh xương động vật hoang dã ( nhiều năng lực chúng đã chết do đói ) tại những di chỉ Neanderthal ý niệm rằng họ biết hầm tủy xương để làm nước cốt. Phương pháp này sẽ giúp họ có được chất béo thiết yếu, vốn là nhu yếu dinh dưỡng chính của những hội đồng tiêu thụ ít carbohydrate và nhiều protein. [ 44 ] [ 274 ] Kích thước răng của người Neanderthal có xu thế tiêu giảm sau thời gian 100.000 năm trước, điều này có lẽ rằng cho thấy họ đã phụ thuộc vào ngày càng nhiều vào việc chế biến thức ăn hoặc họ đã tiếp thu được kỹ thuật đun sôi làm mềm thực phẩm. [ 275 ]
Tại Cueva del Sidrón, Tây Ban Nha, người Neanderthal có lẽ rằng đã nấu chín và hun khói thức ăn, [ 45 ] cũng như sử dụng 1 số ít thảo mộc như vạn diệp và cúc La Mã làm hương liệu [ 44 ] hoặc dược liệu. [ 39 ] Tại Hang Gorham, Gibraltar, người Neanderthal có lẽ rằng đã quay quả thông để lấy hạt bên trong .
Trang hoàng bản thân[sửa|sửa mã nguồn]
Thổ hoàng với niên đại từ 60-45 nghìn năm trước được tìm thấy rất nhiều tại các di chỉ Neanderthal, với mẫu tại Maastricht-Belvédère, Hà Lan có niên đại vào khoảng 250-200 nghìn năm trước và là mẫu sớm nhất được phát hiện (khoảng thời gian này tương tự với niên đại thổ hoàng tại các di chỉ H. sapiens).[276] Có giả thuyết cho rằng chất màu khoáng này được họ bôi lên thân và phân tích sắc tố tại di chỉ Pech de l’Azé, Pháp chỉ ra rằng chúng từng tiếp xúc với vật liệu mềm (có thể là da người hoặc da động vật).[277] Tuy nhiên ở các bộ lạc săn bắt hái lượm hiện đại, ngoài ứng dụng sơn cơ thể, họ còn sử dụng thổ hoàng làm thuốc, thuộc da, làm chất bảo quản thực phẩm và làm chất chống côn trùng, vì vậy giả thuyết người Neanderthal bôi thổ hoàng lên thân thể vẫn chỉ là một suy đoán.[276] Các thùng chứa dường như được dùng để trộn bột màu thổ hoàng đã được khai quật tại Peștera Cioarei, Romania, có thể là bằng chứng về việc người Neanderthal dùng bột màu cho mục đích thẩm mỹ.[278]
Pecten maximus thu được từ Vỏ điệpthu được từ Cueva Antón, Tây Ban Nha. Phần bên trong ( trái ) có màu đỏ tự nhiên, còn phần bên ngoài ( phải ) có những vệt màu phi-tự-nhiên
Người Neanderthal thu thập những đồ vật có hình dạng độc đáo và gia công chúng thành mặt dây chuyền, chẳng hạn như hóa thạch vỏ ốc biển Aspa marginata có vệt sơn đỏ từ Grotta di Fumane, Ý, được vận chuyển hơn 100 km (62 mi) về di chỉ này khoảng 47.500 năm trước;[279] 3 vỏ hữu cơ thuộc về các loài Acanthocardia tuberculata, Glycymeris insubrica và Spondylus gaederopus có niên đại 120–115 nghìn năm trước ở Cueva de los Aviones, Tây Ban Nha, bị đục xuyên qua điểm mấu, trong đó vỏ thứ hai và ba từng được bôi bột đỏ và vàng, còn vỏ thứ ba được bôi sắc đỏ-đen trộn lẫn của hematit và pyrit; và vỏ sò điệp Pecten maximus để lại dấu vết hỗn hợp màu cam của goethit và hematit từ Cueva Antón, Tây Ban Nha.[56][280] Từ năm 1949 đến năm 1963, các cuộc khai quật tại Grotte du Renne, Pháp, đã thu được nhiều hạt gia công Châtelperron làm từ răng, vỏ và ngà bên cạnh các di cốt Neanderthal, song niên đại của chúng còn mập mờ và hiện vật Châtelperron nhiều khả năng là tác phẩm của người hiện đại xong bị thải rác tại nơi đó.[281][282][283][284]
Mặc dù đồ đá của người Neanderthal biểu lộ sự đình trệ thủ công nghệ tầm 150 nghìn năm, [ 169 ] tuy nhiên với nhiều dẫn chứng mới gần đây thì có vẻ thủ công nghệ của họ phức tạp hơn những gì giới khảo cổ từng nghĩ. [ 64 ]
Công cụ đá[sửa|sửa mã nguồn]
Người Neanderthal biết chế tạo công cụ bằng đá với đặc trưng là kỹ nghệ Moustier.[28] Kỹ nghệ Moustier cũng có liên hệ với H. sapiens ở Bắc Phi cách đây 315.000 năm[285] và cũng được tìm thấy ở miền Bắc Trung Quốc vào khoảng 47–37 nghìn năm trước.[286] Kỹ nghệ này phát triển cách đây 300.000 năm cùng với kỹ thuật Levallois hậu duệ của kỹ thuật Acheul do H. erectus phát minh vào khoảng 1,8 triệu năm trước. Kỹ thuật Levallois giúp việc kiểm soát hình dạng và kích thước mảnh đá dễ dàng hơn song nhược điểm là khó học và bất trực giác, bởi vậy nó có lẽ đã được truyền dạy trực tiếp qua các thế hệ thay vì thông qua học tập trực quan thuần túy.[29]
Kỹ nghệ Moustier có nhiều biến thế ở từng địa phương, ví dụ điển hình như : kiểu phụ Quina và La Ferrassie thuộc kỹ nghệ Charentian ở tây nam nước Pháp, kiểu phụ A và B thuộc truyền thống lịch sử Acheul dọc bờ biển Đại Tây Dương và tây-bắc Châu Âu, [ 287 ] kỹ nghệ Micoque tại Trung và Đông Âu và biến thể Sibiryachikha thân mật ở dãy núi Altay Siberia, [ 250 ] kỹ nghệ công cụ răng cưa Moustier ở Tây Âu, kỹ nghệ công cụ nạo racloir đá lửa quanh Dãy núi Zagros và kỹ nghệ bôn đá tước ở Cantabria, Tây Ban Nha, và hai bên dãy Pyrenees. Vào giữa thế kỷ 20, nhà khảo cổ người Pháp François Bordes đã phản biện chống lại nhà khảo cổ người Mỹ Lewis Binford để lý giải sự phong phú này ( ” cuộc tranh luận Bordes-Binford ” ) ; Bordes lập luận rằng những độc lạ này đại diện thay mặt cho những truyền thống cuội nguồn dân tộc bản địa truyền thống riêng còn Binford cho rằng công cụ khác nhau là do thiên nhiên và môi trường ảnh hưởng tác động ( Kết luận, cuộc tranh luận giữa vấn đề hình thức và công dụng ). [ 287 ] Nếu nhận định và đánh giá của Binford đúng thì chứng tỏ người Neanderthal không mưu trí bằng người hiện đại do họ phải thích ứng công cụ có sẵn của mình với thiên nhiên và môi trường chứ không có năng lực phát minh sáng tạo những loại công cụ mới. Một chuỗi liên tục kỹ nghệ đã được ghi nhận ở Grotte du Renne, Pháp, nơi có nhiều kiểu truyền thống cuội nguồn đồ đá như Levallois – Charentian, Discoid – Denticulate ( 43,3 ± 0,929 – 40,9 ± 0,719 nghìn năm trước ), Moustier Levallois ( 40,2 ± 1,5 – 38,4 ± 1,3 nghìn năm trước ), và Châtelperron ( 40,93 ± 0,393 – 33,67 ± 0,450 nghìn năm trước ). [ 288 ]
Mũi Moustier tìm thấy tại Mái đá Darai trong thung lũng Sirwan ở Hawraman, ZagrosTa chưa biết rõ liệu người Neanderthal có vũ khí tầm xa hay không. [ 289 ] [ 290 ] Vết thương trên cổ một di cốt lừa hoang châu Phi từ Umm el Tlel, Syria, trông rất giống vết đâm xuyên của một mũi lao Levallois nặng, [ 291 ] và chấn thương xương này tương thích với những báo cáo giải trình về kỹ thuật ném vật phẩm của người Neanderthal. [ 289 ] [ 290 ] Các mũi nhọn tìm thấy ở Abri du Maras, Pháp, có vẻ như quá mỏng dính để đâm nên rất hoàn toàn có thể chúng được dùng để ném hoặc phi. [ 270 ]
Công cụ hữu cơ[sửa|sửa mã nguồn]
Kỹ nghệ Châtelperron ở miền trung nước Pháp và miền bắc Tây Ban Nha khác với kỹ nghệ Moustier ở chỗ có công cụ bằng xương động vật. Có giả thuyết gây tranh cãi cho rằng nền kỹ nghệ này được người Neanderthal vay mượn hoặc tiếp biến văn hóa từ người hiện đại nhập cư. Theo thuyết đó, kỹ nghệ Châtelperron là văn hóa chuyển tiếp từ Moustier của người Neanderthal sang Aurignac của người hiện đại.[292][293][294][295][296] Quan điểm đối lập cho rằng chủ nhân của kỹ nghệ Châtelperron chính là người hiện đại.[297] Quá trình chuyển đổi đột ngột giống như Moustier/Châtelperron có lẽ chỉ đơn thuần đại diện cho sự đổi mới tự nhiên, giống quá trình chuyển đổi La Quina-Neronian 50.000 năm trước với các công cụ thường được cho là thuộc về người hiện đại như bladelet (dao đá nhỏ có một cạnh sắc một cạnh cùn) và microlith (vi thạch: mảnh tước thường được dùng làm mũi giáo hay mũi tên). Các nền văn hóa chuyển tiếp còn bị tranh cãi khác bao gồm kỹ nghệ Uluzzo ở Ý,[298] và kỹ nghệ Balkan Szeletian.[299]
Trước cuộc di cư của người hiện đại, vật chứng duy nhất về những công cụ bằng xương của người Neanderthal là những lissoir làm từ xương sườn, một công cụ xát vào da thú để làm mềm hoặc chống thấm nước, mặc dầu đây cũng hoàn toàn có thể là dẫn chứng cho thấy người hiện đại đã tiến vào vùng này sớm hơn suy đoán trước. Năm 2013, hai cái lissoir làm từ xương sườn hươu đã 51,4 – 41,1 nghìn năm tuổi được báo cáo giải trình ở Pech-de-l ’ Azé và Abri Peyrony gần đó. [ 294 ] Năm 2020, thêm 5 cái lissoir làm từ xương sườn auroch hoặc bò rừng được báo cáo giải trình từ Abri Peyrony, một chiếc trong đó có niên đại tầm 51.400 năm trước và 4 chiếc còn lại có niên đại tầm 47,7 – 41,1 nghìn năm trước. Điều này cho thấy những công cụ này đã được sử dụng tại đây trong một khoảng chừng thời hạn rất dài. Một số lissoir tiềm năng cũng đã được báo cáo giải trình từ Grosse Grotte, Đức ( xương voi ma mút ), và Grottes des Canalettes, Pháp ( xương hươu đỏ ). [ 300 ]
Callista chione) tại Grotta dei Moscerini, ÝCông cụ nạo làm từ vỏ trai mịn ) tại Grotta dei Moscerini, ÝNgười Neanderthal tại 10 di chỉ ven biển ở Ý ( đơn cử là Grotta del Cavallo và Grotta dei Moscerini ) và hang động Kalamakia, Hy Lạp sản xuất ra những cái nạo làm từ vỏ trai mịn rất bền, có dẫn chứng họ tra chúng vào những cái cán gỗ. Tại Grotta dei Moscerini, khoảng chừng 24 % số vỏ sò có nguồn gốc từ đáy biển, tức là những người Neanderthal tại đây từng lội hoặc lặn xuống vùng nước nông để thu lượm chúng lên bờ. Trong vòng cung núi lửa Campanian tại Grotta di Santa Lucia ở Ý, người Neanderthal tại đây đã tích lũy đá bọt xốp, có lẽ rằng được dùng để đánh bóng mũi phóng. [ 266 ]Tại Abri du Maras, Pháp, những sợi xoắn và một đoạn dây sợi trong vỏ cây 3 – lớp được cho là mẫu sản phẩm của người Neanderthal chỉ ra rằng họ biết sản xuất dây buộc, nhưng không rõ công cụ này phổ cập thế nào vì những vật tư được sử dụng để tạo ra chúng ( ví dụ điển hình như lông động vật hoang dã, da sống, gân, hoặc sợi thực vật ) bị phân hủy sinh học và có tính dữ gìn và bảo vệ rất kém. Công cụ này chứng tỏ người Neanderthal có kiến thức cơ bản về dệt và thắt nút, từ đó mà họ hoàn toàn có thể sản xuất được những công cụ bậc cao hơn. Mảnh dây có niên đại 52 – 41 nghìn năm trước là vật chứng trực tiếp truyền kiếp nhất về kỹ thuật sợi, còn những hạt vỏ đục lỗ 115.000 năm tuổi từ Cueva Antón hoàn toàn có thể xâu lại thành vòng cổ là dẫn chứng gián tiếp truyền kiếp nhất về kỹ thuật sợi. [ 36 ] [ 270 ] Năm 2020, nhà khảo cổ học người Anh Rebecca Wragg Sykes bày tỏ sự ủng hộ thận trọng so với phát hiện trên. Bà chỉ ra rằng sợi dây rất yếu nên nó chỉ có 1 số ít công dụng hạn chế ví dụ như gắn hoặc xâu chuỗi những vật thể nhỏ .
Lửa và kiến thiết xây dựng[sửa|sửa mã nguồn]
Nhiều di chỉ Moustier có dẫn chứng về đám cháy mặc dầu không rõ liệu đây là lửa do người Neanderthal tự nhóm hay lấy từ nguồn vạn vật thiên nhiên ( sét, dung nham, v.v ). Các dẫn chứng gián tiếp về năng lực nhen nhóm lửa ở người Neanderthal gồm có những chất cặn pyrit sót lại trên hàng chục công cụ hai mặt quá trình Moustier muộn khoảng chừng 50.000 năm trước ở tây-bắc nước Pháp và tập hợp MnO2 chiết xuất từ tinh thể được người Neanderthal dùng để hạ nhiệt độ bén lửa của gỗ. [ 30 ] [ 31 ] [ 302 ] Ngoài ra, họ còn biết mở mang một khu vực nhằm mục đích tạo khoảng trống để hoạt động và sinh hoạt, ghè đẽo công cụ, mổ thịt, cất nhà bếp sưởi và tàng trữ củi. Cũng có những di chỉ Neanderthal thiếu những dẫn chứng như vậy, chắc rằng là bởi những yếu tố tự nhiên tại đó đã xóa mất dấu vết. [ 303 ]
Tuy rất khó để xác lập mức độ phức tạp ngôn từ ở người Neanderthal, ta cũng hoàn toàn có thể thấy họ đã đạt được nhiều thành tựu văn hóa truyền thống nhất định và từng giao phối với người hiện đại, thế cho nên trọn vẹn có lý khi cho rằng người Neanderthal biết nói ở mức độ nào đó, giống với người hiện đại. Một thứ ngôn từ phức tạp ( hoàn toàn có thể gồm có cú pháp ) có vẻ như thiết yếu để người Neanderthal sống sót trong những môi trường tự nhiên khắc nghiệt, bởi lẽ họ cần trao đổi về những chủ đề như khu vực săn bắt hái lượm hoặc truyền dạy kỹ thuật sản xuất công cụ cho những thành viên. [ 64 ] [ 304 ] [ 305 ] Gen FOXP2 ở người hiện đại có tương quan đến sự tăng trưởng lời nói và ngôn từ. Người Neanderthal cũng sở hữu loại gen này, [ 306 ] tuy không giống trọn vẹn với người hiện đại. [ 307 ] Về mặt thần kinh, vùng Broca ở não Neanderthal rất rộng ( phân khu não bộ tiếp đón tính năng hình thành câu cú và thông hiểu lời nói ), tuy nhiên trong số 48 gen được cho là tác động ảnh hưởng đến kiến trúc thần kinh của ngôn từ, 11 gen biểu lộ sự độc lạ kiểu mẫu methyl hóa so với người hiện đại. Sự chênh biệt này có lẽ rằng đã giúp loài người hiện đại diễn đạt ngôn từ tốt hơn so với người Neanderthal. [ 308 ]Năm 1971, nhà khoa học nhận thức Philip Lieberman xuất bản khu công trình phục dựng thanh quản của người Neanderthal, trong đó Kết luận rằng nó giống với trẻ sơ sinh và người Neanderthal không có năng lực phát âm mũi, hơn thế nữa kích cỡ miệng của họ khá lớn nên thanh quản không cần hạ thấp dưới cổ để chứa vừa bộ lưỡi. Lieberman cho rằng xét về giải phẫu thì người Neanderthal không hề tạo những âm / a /, / i /, / u /, / ɔ /, / g /, và / k / và do đó không hề phát âm rành mạch tuy nhiên vẫn hoàn toàn có thể nói ở Lever cao hơn so với những loài linh trưởng không phải người. [ 309 ] [ 310 ] [ 311 ] Tuy nhiên, thanh quản hạ thấp không nhất thiết phải gây gián đoạn đến chất lượng nguyên âm. [ 312 ] Phát hiện xương móng ( loại xương thuộc cỗ máy thanh âm ở người hiện đại ) của người Neanderthal gần giống với xương móng của người hiện đại vào năm 1983 tại Kebara 2 chứng tỏ họ trọn vẹn có năng lực nói. Ngoài ra, di cốt của những hominid tại Sima de los Huesos có xương tai và xương móng giống với người hiện đại, điều này có lẽ rằng là vật chứng về tiến trình tiến hóa sơ kỳ của cỗ máy thanh âm của người hiện đại. Dẫu vậy, xương móng không cung ứng cái nhìn thâm thúy hơn về giải phẫu đường thanh quản. [ 65 ] Các điều tra và nghiên cứu sau này tái tạo cỗ máy thanh âm của người Neanderthal gần với người hiện đại hơn. [ 313 ] Vào năm năm ngoái, Lieberman suy đoán rằng người Neanderthal có năng lực sử dụng ngôn từ cú pháp, nhưng không có năng lực nói thông thuộc bất kể phương ngữ nào của con người. [ 314 ]Không rõ liệu hiện đại hành vi chỉ xảy ra mới gần đây và độc nhất ở con người hiện đại, hay người Neanderthal cũng đã trải qua quy trình y hệt như vậy. [ 315 ] [ 305 ] [ 316 ]
Những chứng minh và khẳng định về hành vi chôn cất với một ý nghĩa tượng trưng ở người Neanderthal còn đang bị tranh cãi và thiếu chắc như đinh. [ 318 ] [ 319 ] [ 320 ] Mặc dù ta có vật chứng người Neanderthal chôn cất thành viên đã chết ( có lẽ rằng là vật chứng lý giải sự đa dạng chủng loại những di vật hóa thạch ), điều đó chưa phải tín hiệu xác đáng của niềm tin tôn giáo về sự sống sau cái chết bởi lẽ động cơ của việc chôn cất hoàn toàn có thể mang tính phi-tượng-trưng, ví dụ điển hình như xúc cảm mãnh liệt [ 321 ] hoặc nhằm mục đích phòng ngừa những loài ăn xác. [ 322 ]
Cuộc tranh luận về người Neanderthal có táng tục hay không bắt đầu kể từ khi mẫu La Chapelle-aux-Saints 1 được phát hiện vào năm 1908 trong một cái hố nhỏ nhân tạo trong hang động phía tây nam nước Pháp, được cho là bằng chứng chôn cất tượng trưng.[318][323][324] Một hố mộ khác tại Hang Shanidar, Iraq, kèm phấn của một số loài hoa dường như đã nở vào thời điểm bồi tích, bao gồm vạn diệp, centaurium erythraea, cúc dại, muscari, ma hoàng, và thục quỳ.[325] Các loài thảo mộc này có điểm chung là tính dược liệu, khiến cho nhà khảo cổ học người Mỹ Ralph Solecki suy đoán rằng người đàn ông Neaderthal được chôn cất là một nhà lãnh đạo, người chữa bệnh hoặc thầy cúng nào đó, và rằng “Sự liên kết giữa người Neanderthal và các loài hoa đã khai mở một chiều sâu kiến thức mới của chúng ta về nhân tính của anh ta, cho thấy rằng anh ta có ‘linh hồn'”.[326] Song, ta không thể loại bỏ trường hợp phấn hoa tại đây bị các loài gặm nhấm nhỏ mang tới sau khi anh ta đã chết.[327]
Đặc biệt hơn, những đứa trẻ Neanderthal thường được chôn cất cùng với những di vật tùy táng. Hài cốt một đứa bé sơ sinh tại La Ferrassie, Pháp, được tìm thấy kèm 3 cái nạo bằng đá lửa ; tro cốt một đứa bé sơ sinh từ hang Dederiyeh, Syria, được tìm thấy kèm 1 viên đá lửa hình tam giác đặt trên ngực ; tro cốt một đứa bé 10 tháng tuổi từ hang Amud, Israel, được tìm thấy kèm xương hàm dưới của một con hươu đỏ, có lẽ rằng được đặt chủ đích ở đó vì di cốt của những con vật khác tại đó đều vỡ vụn trừ mảnh hàm kia. Mồ của vật mẫu Teshik-Tash 1 từ Uzbekistan được bao quanh bởi một vòng tròn rải sừng sơn dương, mê hoặc hơn là đầu của mẫu này có vẻ như được kê trên một phiến đá vôi. [ 241 ] Hài cốt một đứa bé tại Kiik-Koba, Krym, Ukraina, được phát hiện cùng 1 mảnh tước đá lửa bị xước bên trên, có vẻ như là những vết khắc rất kì công. [ 58 ] Tuy nhiên, những mày mò này chưa phải vật chứng về sự chôn cất tượng trưng do tại ta không thể nào biết được tầm quan trọng của chúng so với người Neanderthal. [ 241 ]
Một số nhà khảo cổ từng cho rằng xương của gấu hang, đặc biệt quan trọng là hộp sọ của chúng, trong một số ít động ở châu Âu được sắp xếp theo một trật tự đơn cử cho thấy một tín ngưỡng thờ gấu cổ xưa nào đó. Tục thờ gấu ngày này cũng hoàn toàn có thể được quan sát trong những hội đồng săn bắn hái lượm ở Bắc Cực hiện đại, tuy nhiên ta vẫn không hề vô hiệu những nguyên do tự nhiên gây ra điều đó, [ 63 ] [ 321 ] và thiên kiến hoàn toàn có thể phát sinh bởi sự sống sót của tục thờ gấu phù ứng với học thuyết cho rằng tục thờ vật tổ là tôn giáo sớm nhất, dẫn đến việc ngoại suy dẫn chứng không đáng có. [ 328 ]Một số nhà khảo cổ cũng từng cho rằng người Neanderthal săn, giết và ăn thịt những người Neanderthal khác theo nghi thức và sử dụng đầu lâu làm hy lễ cho những nghi lễ. [ 329 ] Năm 1962, nhà cổ sinh vật học người Ý Alberto Blanc nhận xét rằng một hộp sọ tìm thấy tại Grotta Guattari ở Ý có tín hiệu đã bị đập nhanh — tín hiệu của một nghi lễ sát tế — cùng một vết rạch có chủ đích và khá đúng chuẩn ở đáy sọ nhằm mục đích tiếp cận não. Ông cho rằng trường hợp này giống với sọ của những nạn nhân bị giết bởi những tộc săn đầu người ở Malaysia và Borneo, [ 330 ] khẳng định chắc chắn rằng đây là dẫn chứng cho tục thờ đầu lâu. [ 321 ] Tuy nhiên, nghiên cứu và phân tích mới gần đây cho thấy những dấu vết đó nhiều năng lực là vết răng linh cầu. [ 331 ] Mặc dù ta biết người Neanderthal có tập tục ăn thịt đồng loại, tuy nhiên hiện ta chưa có đủ vật chứng cho thấy họ róc xương đồng loại để cúng tế. [ 332 ]Vào năm 2019, nhóm những nhà cổ sinh vật học của Gibraltar là Stewart, Geraldine và Clive Finlayson cùng nhà khảo cổ học người Tây Ban Nha Francisco Guzmán đưa ra giả thuyết cho rằng đại bàng vàng có giá trị hình tượng so với người Neanderthal giống một số ít xã hội người hiện đại, bởi lẽ tỉ lệ xương đại bàng vàng được tu chỉnh tự tạo lớn hơn rõ ràng khi so với số xương được tu chỉnh của những loài chim khác. Họ còn phỏng đoán rằng người Neaderthal có một ” Giáo phái Chim Mặt trời ” lấy đại bàng vàng làm hình tượng quyền lực tối cao. [ 333 ]
Giao phối dị chủng[sửa|sửa mã nguồn]
Giao phối với người hiện đại[sửa|sửa mã nguồn]
[334]Phục dựng chân dung người thời kỳ đồ đá cũ thượng có biệt danh Oase 2. Bộ gen của ông chứa tầm 7.3 % ADN của người Neanderthal ( thừa kế từ tổ tiên cách 4 – 6 thế hệ )
Trình tự bộ gen người Neanderthal đầu tiên được công bố vào năm 2010 và chỉ ra rõ ràng sự giao phối giữa người Neanderthal và người hiện đại.[84][335][336][337] Bộ gen của tất cả các quần thể người sống ngoài vùng cận Sahara đều mang dấu ấn ADN của người Neanderthal,[84][86][338][339] các ước tính cho rằng tỉ lệ này lần lượt ở mức 1–4%[84] hoặc 3,4–7,9% ở người Á-Âu hiện đại,[340] hoặc 1,8–2,4% ở người châu Âu hiện đại và 2,3–2,6% ở người Đông Á hiện đại.[341] Người châu Âu tiền-nông-nghiệp dường như có tỉ lệ gen Neaderthal tương tự người Đông Á hiện đại, và con số này sau đó suy giảm ở người châu Âu vì bộ gen của họ bị “pha loãng” với một nhóm người tách ra trước thời điểm gen người Neanderthal xâm nhập. Một nghiên cứu năm 2020 đã phát hiện 0,3-0,5% gen Neanderthal tồn tại trong bộ gen của 5 quần thể châu Phi được lấy mẫu; số gen này có lẽ bắt nguồn từ sự lai tạp giữa quần thể Á-Âu di cư ngược trở lại châu Phi và quần thể định cư tại châu Phi, hoặc có lẽ chúng bắt nguồn từ dòng gen người-sang-neanderthal bởi sự phân tán của Homo sapiens trước cuộc đại di cư ra khỏi Châu Phi.[342] tỉ lệ ADN Neanderthal thấp như vậy trong các quần thể ngày nay chứng tỏ sự giao phối giữa các giống người trong quá khứ xảy ra không quá thường xuyên,[343] hoặc cũng có thể đã từng tồn tại quần thể lai tạp thường xuyên như vậy nhưng sau bị tuyệt diệt và không góp gì vào bộ gen hiện nay. Xét vốn gen Neanderthal còn lưu tồn ở người hiện đại, 25% số đó ở người châu Âu hiện đại và 32% số đó ở người Đông Á hiện đại có lẽ liên quan đến khả năng miễn dịch virus.[344] Nhìn chung, khoảng 20% bộ gen người Neanderthal dường như còn sót lại trong vốn gen của người hiện đại.[91]
Tuy nhiên, do dân số nhỏ dẫn đến suy giảm hiệu suất cao tinh lọc tự nhiên, người Neanderthal đã tích góp nhiều đột biến có hại và yếu, sau được hòa vào và tinh lọc từ từ trong quần thể người hiện đại lớn hơn ; độ thích ứng của quần thể lai bắt đầu có lẽ rằng bị giảm tới 94 % so với quần thể người đương thời. Cũng chính vì điều này, độ thích ứng của quần thể người Neanderthal tăng lên đáng kể. [ 79 ] Một nghiên cứu và điều tra năm 2017 tập trung chuyên sâu vào những gen cổ ở Thổ Nhĩ Kỳ đã tìm thấy mối liên hệ với bệnh coeliac, sốt rét và hội chứng Costello. [ 345 ] Song 1 số ít gen hữu dụng có lẽ rằng đã giúp người châu Âu hiện đại thích nghi tốt hơn với thiên nhiên và môi trường ; biến thể Val92Met của gen MC1R, có vẻ như link với tính trạng tóc đỏ, [ 346 ] có lẽ rằng thừa kế từ người Neanderthal [ 347 ] mặc dầu điều này bị tranh cãi vì biến thể này rất hiếm ở người Neanderthal, [ 212 ] và da sáng màu ở người hiện đại chưa lan rộng cho đến thế Toàn Tân. [ 348 ] Một số gen tương quan đến hệ miễn dịch có vẻ như từng bị ảnh hưởng tác động bởi sự xâm nhập gen và chúng có lẽ rằng đã giúp con người thực thi được những cuộc di cư, [ 93 ] ví dụ điển hình như OAS1, [ 349 ] STAT2, [ 350 ] TLR6, TLR1, TLR10, [ 351 ] và nhiều gen tương quan đến phản ứng miễn dịch. [ 92 ] [ f ] Ngoài ra, những gen Neanderthal ở người hiện đại còn có ảnh hưởng tác động đến cấu trúc và tính năng của não, [ g ] những sợi trung gian, sự chuyển hóa đường, sự co cơ, phân bổ mỡ trong khung hình, độ dày của men răng và quy trình giảm phân noãn bào. [ 96 ] Nhưng nhìn chung hầu hết số gen hòa hợp đó chỉ là những ADN không mã hóa ( hay ” ADN rác ” ), không có công dụng sinh học .
Theo phương pháp phác bản đồ bất cân bằng liên kết (linkage disequilibrium mapping), dòng gen cuối cùng của người Neanderthal nhập vào bộ gen người hiện đại xảy ra cách đây 86–37 nghìn năm hoặc 65–47 nghìn năm.[353] Các nhà nghiên cứu cho rằng gen Neanderthal của người ngày nay bắt nguồn từ sự kiện giao phối diễn ra ở Cận Đông chứ không phải châu Âu. Tuy nhiên, giao phối dị chủng vẫn có thể xảy ra mà không nhất thiết phải đóng góp vào bộ gen hiện đại. Mẫu người Oase 2 40.000 năm tuổi được phát hiện vào năm 2015 sở hữu 6–9% (ước tính điểm là 7,3%) ADN Neanderthal, với tổ tiên phía Neanderthal của anh ta cách 4-6 thế hệ, song gen của quần thể lai này dường như không được kế thừa bởi người châu Âu hậu thế.[334] Vào năm 2016, ADN của người Neanderthal từ Hang Denisova tiết lộ bằng chứng về giao phối dị chủng cách đây 100.000 năm, và sự giao phối với loài H. sapiens phát tán sớm có lẽ đã xảy ra sớm nhất vào khoảng 120.000 năm trước ở vùng lân cận Levant.[88] Những di tích sớm nhất của H. sapiens bên ngoài châu Phi có thể được tìm thấy tại Hang Misliya 194–177 nghìn năm tuổi, và Skhul và Qafzeh 120–90 nghìn năm tuổi.[354] Những người Qafzeh sống đồng thời với người Neanderthal từ Hang Tabun gần đó.[355] Người Neanderthal tại di chỉ Hohlenstein-Stadel ở Đức có ADN ty thể khác hẳn những người Neanderthal gần đây hơn, dường như gây ra bởi sự xâm nhập mtDNA từ người hiện đại vào khoảng 316-219 nghìn năm trước, hoặc do họ bị cô lập về mặt di truyền.[87] Dù gì đi chăng nữa, những sự kiện giao phối dị chủng đầu tiên không để lại bất cứ dấu vết nào trong bộ gen người hiện đại.[356]
Giao phối với người Denisova[sửa|sửa mã nguồn]
Homo trong vòng 2 triệu năm gần đây (trục tung), với H. sapiens được biểu thị trên đỉnh theo trục hoành địa lý. Ta có thể thấy gen của người Neanderthal, người Denisova, và các loài người cổ chưa xác định đã hòa lẫn với người hiện đại.Cây tiến hóa chitrong vòng 2 triệu năm gần đây ( trục tung ), với sự phát tán ra khỏi châu Phi củađược biểu lộ trên đỉnh theo trục hoành địa lý. Ta hoàn toàn có thể thấy gen của người Neanderthal, người Denisova, và những loài người cổ chưa xác lập đã hòa lẫn với người hiện đại .
Phân tích nDNA xác nhận người Neanderthal và người Denisova có quan hệ họ hàng gần hơn so với người hiện đại. Tuy vậy, người Neanderthal và người hiện đại lại có tổ tiên mtDNA dòng mẹ chung gần đây hơn, có thể là bởi sự lai tạp giữa người Denisova và một số loài người chưa được biết đến. Khi xét về mtDNa, những di cốt trông giống Neanderthal 400.000 năm tuổi từ Sima de los Huesos miền bắc Tây Ban Nha có quan hệ họ hàng gần với người Denisova hơn người Neanderthal. Nhiều hóa thạch trông giống Neanderthal ở Á-Âu trong khoảng thời gian trên thường được phân loại là loài H. heidelbergensis, một số trong đó có thể là những quần thể còn sót lại, có khả năng đã giao phối với người Denisova.[357] Điều này được sử dụng để giải thích một mẫu vật người Neanderthal ở Đức 124.000 năm tuổi với mtDNA khác biệt với những người Neanderthal khác (ngoại trừ Sima de los Huesos) khoảng 270.000 năm trước, trong khi ADN bộ gen của nó tiết lộ sự phân tách cách đây ít nhất 150.000 năm.[87]
Giải trình tự bộ gen người Denisova từ Hang Denisova cho thấy 17 % bộ gen của họ bắt nguồn từ người Neanderthal. [ 90 ] ADN Neanderthal này giống với ADN trong xương Neanderthal 120.000 năm tuổi từ cùng hang động hơn là ADN của người Neanderthal từ hang Vindija ở Croatia hoặc hang Mezmaiskaya ở Kavkaz, chứng tỏ sự giao phối dị chủng chỉ diễn ra ở khoanh vùng phạm vi địa phương. [ 89 ]Đối với mẫu Denisova 11 90.000 tuổi, những nhà khoa học đã xác lập cha cô là một người Denisova có quan hệ họ hàng với những dân cư tại đó và mẹ cô là một người Neanderthal có quan hệ họ hàng gần hơn với người Neanderthal châu Âu tại hang Vindija, Croatia. Vì số lượng di cốt Denisova được tìm ra còn ít, việc phát hiện ra con lai G1 chứng tỏ sự giao phối giữa hai loài này rất thông dụng và dòng di cư của người Neanderthal qua Á-Âu có lẽ rằng xảy ra sau thời gian 120.000 năm trước. [ 358 ]
Giai đoạn chuyển tiếp[sửa|sửa mã nguồn]
Bản đồ tô đậm lưu vực sông Ebro ở miền bắc Tây Ban NhaDù nguyên do tuyệt chủng của họ là gì đi chăng nữa, người Neanderthal đã gần như bị sửa chữa thay thế trọn vẹn bởi người hiện đại trong khoảng chừng thời hạn từ 41-39 ngàn năm trước, dựa trên dẫn chứng những công cụ Moustier thời đá cũ giữa bị thay thế sửa chữa bởi công cụ Aurignac thời đá cũ thượng của người hiện đại trên khoanh vùng phạm vi toàn châu Âu ( Chuyển tiếp thời kỳ đá cũ Giữa sang Thượng ). [ 9 ] [ 10 ] [ 12 ] [ 359 ] Quần thể Neanderthal tại Iberia được cho là vẫn sống sót đến khoảng chừng 35.000 năm trước dựa trên ước tính niên đại những phức tạp đồ đá chuyển tiếp gồm có Châtelperron, Uluzzo, Protoaurignac và Aurignac Sớm. Chủ nhân của hai phức tạp đồ đá Protoaurignac và Aurignac Sớm đã được xác nhận là người hiện đại còn hai phức tạp Châtelperron và Uluzzo chưa rõ thuộc về chủng người nào, có năng lực chúng là loại sản phẩm của quy trình chung đụng và lan tỏa kỹ nghệ giữa người Neanderthal / người hiện đại. Hơn nữa, phức tạp Aurignac tại phía nam sông Ebro có niên đại khoảng chừng 37.500 năm trước, điều này đã thôi thúc giả thuyết ” Biên giới Ebro ” cho rằng con sông này là một rào cản địa lý ngăn trở sự nhập cư của người hiện đại, và do đó lê dài sự sống sót của người Neanderthal. [ 360 ] [ 361 ] Tuy nhiên, niên đại của quá trình Chuyển tiếp Iberia vẫn đang bị bàn cãi, với thời gian được đề xuất kiến nghị là 43 – 40,8 nghìn năm trước tại Cueva Bajondillo, Tây Ban Nha. [ 362 ] [ 363 ] [ 364 ] [ 365 ] Phức hợp đồ đá Châtelperron Open ở hướng đông bắc Iberia từ khoảng chừng 42,5 – 41,6 nghìn năm trước. [ 360 ]Một số di tích lịch sử Neanderthal ở Gibraltar có niên đại gần đây hơn thời gian 40.000 năm trước, ví dụ như tại Zafarraya ( 30.000 năm trước ) [ 366 ] và Hang động Gorham ( 28.000 năm trước ) [ 367 ], tuy nhiên có lẽ rằng không đúng mực vì phương pháp định tuổi dựa trên những đồ tạo tác không rõ lai lịch. [ 12 ] Khẳng định về di chỉ Neanderthal trên dãy núi Ural [ 162 ] được ủng hộ lỏng lẻo bởi những công cụ bằng đá của phức tạp Moustier có niên đại 34-31 nghìn năm trước từ khu Byzovaya phía bắc Siberia vào thời gian mà người hiện đại chưa bành trướng lên phía bắc châu Âu ; [ 164 ] tuy nhiên, di tích lịch sử người hiện đại từ di chỉ Mamontovaya Kurya gần đó được xác lập niên đại khoảng chừng 40.000 năm trước. [ 368 ] Phân tích niên đại gián tiếp di cốt người Neanderthal từ Hang Mezmaiskaya đưa ra hiệu quả 30.000 năm, nhưng khi nghiên cứu và phân tích niên đại trực tiếp thì lại đưa ra tác dụng 39,7 ± 1,1 nghìn năm tương thích hơn với xu thế đã thấy ở những di chỉ khác tại châu Âu. [ 11 ]
Người hiện đại[sửa|sửa mã nguồn]
Từ trước đến nay, những nhà khảo cổ coi rằng thủ công nghệ và kế hoạch sống sót của người hiện đại tiêu biểu vượt trội hơn hẳn so với người Neanderthal. Do đó có quan điểm cho rằng họ tuyệt chủng đơn thuần là bởi không hề cạnh tranh đối đầu nổi với người hiện đại. [ 16 ]Việc phát hiện ra sự hòa nhập gen giữa người Neanderthal / người hiện đại đã làm dấy lại giả thuyết đa vùng về nguồn gốc loài người. Theo đó, người Neanderthal và những loài người cổ xưa khác không hẳn là đã tuyệt diệt mà bị đồng điệu vào bộ gen người hiện đại – nghĩa là, họ đã ” hòa huyết ” đến mức tuyệt chủng. [ 16 ]
Biến đổi khí hậu[sửa|sửa mã nguồn]
Sự tuyệt chủng sau cuối của người Neanderthal trùng khớp với sự kiện Heinrich 4, một thời kỳ có tính mùa vụ kinh hoàng ; những sự kiện Heinrich sau đó thường gắn liền với sự biến chuyển văn hóa truyền thống lớn, khi mà những quần thể người hiện đại ở châu Âu sụp đổ. [ 17 ] [ 18 ] Sự biến khí hậu này có lẽ rằng đã làm suy giảm dân số người Neanderthal tại nhiều vùng giống như những thời kì lạnh không bình thường trước đó, rồi những vùng ít dân dần bị sửa chữa thay thế bởi dòng người hiện đại nhập cư, ở đầu cuối dẫn đến sự tuyệt chủng của người Neanderthal. [ 369 ]Có yêu cầu cho rằng đổi khác khí hậu là động lực chính dẫn đến sự tuyệt chủng của họ bởi lẽ dân số Neanderthal rất thấp khiến họ dễ bị tổn thương trước bất kể sự đổi khác môi trường tự nhiên nào, thậm chí còn chỉ một đổi khác nhỏ so với tỉ lệ sống sót hoặc tỉ lệ sinh sản của họ hoàn toàn có thể nhanh gọn dẫn đến sự tuyệt chủng của cả chủng loài. [ 370 ] Song cũng phải chú ý quan tâm rằng người Neanderthal và tổ tiên của họ đã sống trên mảnh đất châu Âu hàng nghìn năm rồi, vì thế họ cũng đã từng trải qua nhiều sự kiện băng hà khắc nghiệt ngang bằng hoặc hơn thế. [ 260 ] Cũng có yêu cầu cho rằng khoảng chừng 40.000 năm trước, dân số người Neanderthal có vẻ như đã bị suy giảm do yếu tố khác, ví dụ điển hình như vụ phun trào Campania ở Ý hoàn toàn có thể dẫn đến sự diệt vong ở đầu cuối của họ, vì sự kiện này đã khiến nhiệt độ môi trường tự nhiên giảm xuống chỉ còn 2 – 4 °C trong vòng 1 năm và gây nên những cơn mưa axít lê dài vài năm nữa. [ 19 ] [ 371 ]
Người hiện đại có lẽ đa mang theo những mầm bệnh từ châu Phi sang châu Âu trên con đường di cư của mình. Sự thiếu hụt khả năng miễn dịch với các loại bệnh đó cộng với tổng dân số vốn đã thấp của Neanderthal có lẽ đã đẩy họ đến bờ vực tuyệt chủng, hơn nữa vốn gen của người Neanderthal cũng nghèo nàn nên họ khó có khả năng tự phát triển miễn dịch chống lại các dịch bệnh mới lạ (giả thuyết “kháng mầm bệnh chênh biệt”). Tuy vậy giả thuyết này không vững chãi bởi vì người Neanderthal sở hữu tới 12 gen phức hợp tương thích mô chính (major histocompatibility complex, viết tắt là MHC) liên quan đến hệ thống miễn dịch thích ứng; số gen Neanderthal này có sự đa dạng tương tự hoặc thậm chí hơn người hiện đại.[21]
Dân số thấp và thoái hóa giống do cận phối có thể dẫn đến hiện tượng sụp đổ đột biến (mutational meltdown) và góp phần gây ra sự tuyệt chủng Neanderthal.[231]
Dân tộc Fore từng sinh sống tại New Guinea vào cuối thế kỷ 20 có hủ tục ăn thịt đồng loại, sau này bị tuyệt diệt bởi dịch não xốp truyền nhiễm (transmissible spongiform encephalopathies) gọi là kuru hoành hành. Đây là một căn bệnh lây lan có độc lực cao bắt nguồn từ việc ăn phải prion trong mô não. Tuy vậy những cá nhân sở hữu biến thể 129 của gen PRNP có được sự miễn dịch tự nhiên đối với prion. Nghiên cứu sâu thêm mã gen này phát hiện ra rằng biến thể 129 phổ biến ở tất cả loài người hiện đại, điều này chứng tỏ tập tục ăn thịt người từng phổ biến ở một thời điểm nào đó trong tiến trình tiến hóa của nhân loại. Do ta có bằng chứng người Neanderthal ăn thịt đồng loại ở một mức độ nào đó và chung đụng với người hiện đại, nhà cổ sinh vật học người Anh Simon Underdown suy đoán rằng người hiện đại đã lây truyền một loại bệnh não xốp nào đó giống như kuru sang người Neanderthal. Vì người Neanderthal dường như không sở hữu biến thể 129, căn bệnh kia đã lây lan và chấm dứt giống loài của họ.[20][372]
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]