Nguồn gốc người Việt Nam để chỉ nguồn gốc của các dân tộc sống ở Việt Nam. Hiện nay chỉ mới được xác định được nguồn gốc của một số dân tộc thiểu số mới hình thành hoặc di cư đến từ thời kỳ có sử như H’Mông, Sán Dìu… Đối với nhiều dân tộc, đặc biệt là người Việt/Kinh, thì còn ở mức giả thuyết. Các giả thuyết nguồn gốc các dân tộc tại Việt Nam được chia ra hai phái:
Quá trình hình thành những dân tộc bản địa tại Việt Nam[sửa|sửa mã nguồn]
Chủng Nam Á chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt.[3]
Khảo cổ học[sửa|sửa mã nguồn]
Các nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam và Đông Dương có bề dày hơn một thế ký, là tư liệu chủ chốt trong tìm hiểu nguồn gốc các dân tộc. Nghiên cứu đã xác định ra các nền văn hóa cổ Việt Nam kế tiếp nhau từ 25 Ka BP (văn hóa Tràng An, văn hóa Ngườm) đến đầu công nguyên.
Một trong những vật chứng điển hình nổi bật nhất chứng tỏ những dân tộc bản địa Khu vực Đông Nam Á [ 4 ], trong đó có Việt Nam, có chung một thế hệ nguồn gốc tiên phong là việc những nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rất nhiều điểm tương đương về một nền văn hóa truyền thống rất tăng trưởng gọi là Văn hóa Hòa Bình ( niên đại 14 – 12 Ka BP ) ở rải rác những nơi ở Khu vực Đông Nam Á như Việt Nam, xứ sở của những nụ cười thân thiện và ” vòng hòn đảo Khu vực Đông Nam Á “. ” Người Hòa Bình là ai ?. Trong hang Con Moong còn tìm thấy nhiều tro cốt, đa phần xương đã mũn nát, nhưng còn một bộ với răng sọ, cho thấy chủng tộc là Australoid negrito ” ( Nguyễn Đức Hiệp, 2012 ) [ 4 ]. Trong những văn liệu quốc tế ” người Hòa Bình ” ( Hoabinhian ) này còn được gọi là Proto-Malay, đã phân bổ rộng khắp Khu vực Đông Nam Á, với những phát hiện ở Tabon ( Palawan, Philippines ), ở hang Niah ( Sarawak, Malaysia ), và ở những hang Ma, hang Pa Chan, Moh-Kiew, Lang Rongrien ở Thailand. Họ cũng được xác lập là có liên hệ về di truyền với những chủng người địa phương Úc lúc bấy giờ [ 4 ] .Dựa theo thuyết ” rời khỏi châu Phi ” ( Out-of-Africa ) thì Hoabinhian thuộc làn sóng di cư thứ nhất. Làn sóng di cư thứ hai, được nhắc đến trong văn liệu Malaysia là ” người Malay thứ hai ” ( Deutero-Malay ) [ 5 ] di cư đến thì Proto-Malay một phần bị đồng nhất, phần tuyệt diệt và phần còn sót lại đến thời nay là những bộ tộc khác biệt người Negrito ở Philippines, Malaysia, Andaman, và còn sót ở Đài Loan đến Tk 19 [ 6 ]. Làn sóng di cư thứ hai dẫn đến vùng đông nam và đông châu Á nói chung, được định hình với những dân cư tổ tiên của những dân tộc bản địa thuộc ngữ hệ Nam Đảo, Nam Á, Tai-Kadai và Hán-Tạng, từ Ấn Độ đi qua hiên chạy dọc Bengal đến sở hữu, sửa chữa thay thế dần Hoabinhian và tạo ra những nền văn hóa truyền thống trẻ hơn. Sự di cư đến tạo ra thực trạng những dân tộc bản địa với những ngôn từ khác nhau sống xen nhau .Trường phái ” tăng trưởng liên tục ” thì cho rằng những nền văn hóa truyền thống cổ đã tăng trưởng liên tục và tiếp nối nhau đến thời sơ sử. Cá biệt còn có quan điểm cho rằng từ ” văn hóa truyền thống Hòa Bình từ Khu vực Đông Nam Á lan tỏa đến những vùng khác “, coi Khu vực Đông Nam Á là một trong số cái nôi tăng trưởng của loài người, như Wilhelm G. Solheim ( 1972 ), Stephen Oppenheimer [ 7 ], và 1 số ít học giả trong nước. Tuy nhiên một số ít quan điểm này Open trước khi có tân tiến trong ứng dụng sinh học phân tử. Và việc kiểm chứng bằng sinh học phân tử để xác lập quan hệ tổ tiên của những di cốt, để xác lập sự liên tục tăng trưởng, thì không được chăm sóc thực thi ( thực trạng năm 2019 ) .Dù quan điểm khác nhau, thì những vật chứng khảo cổ học cho thấy những dân tộc bản địa hầu hết hiện sống trên chủ quyền lãnh thổ Việt Nam, vào đầu thời sơ sử đã là những dân tộc bản địa địa phương .
Di truyền học[sửa|sửa mã nguồn]
Những thành tựu về di truyền học và sinh học phân tử trong sinh học đã cung ứng phương tiện đi lại số 1 cho điều tra và nghiên cứu tiến hóa của loài người [ a ], cũng như tiến hóa của sinh giới nói chung. Theo dõi những biến dị trong bộ mã di truyền cho phép xác lập sự tiến hóa và phát tán những quần thể người. Trong số đó thì điều tra và nghiên cứu những vùng mã di truyền sau đây có ứng dụng đặc biệt quan trọng : [ b ]
Ngoài ra, các yếu tố như nhóm kháng nguyên bạch cầu (HLA, Human Leucocyte Antigen), dấu chỉ bàn tay,… là biểu hiện của mã di truyền nhưng dễ đo dạc hơn, cũng được sử dụng.
Việc so sánh gen trong di cốt cổ với người văn minh thì Giao hàng truy lùng quan hệ tổ tiên và hậu duệ. Nếu thực thi thì sẽ xác lập được gia chủ những nền văn hóa truyền thống cổ, ví dụ ở bán đảo Đông Dương là ai, có liên tục đến nay hay không .
Các nghiên cứu còn thực hiện ở các động thực vật nuôi trồng mà họ mang theo, thậm chí cả vi khuẩn trong bao tử,… Những nghiên cứu này xác định lúa châu Á Oryza sativa đều phát tích từ một giống lúa hoang ở miền nam Trung Quốc ngày nay[12] từ lúa hoang Oryza rufipogon từ 8-13 Ka BP.[d] Có tài liệu nói đến thuần hóa lợn từ 9 Ka BP, nhưng nguồn dẫn chứng thiếu rõ ràng.
Phân bố lúc bấy giờ của những ngôn từ thuộc ngữ hệ Nam Á, gợi ý tưởng tượng quy trình đông tiến của proto-Austro-Asiatic từ Ấn Độ
Kết quả nghiên cứu sinh học phân tử dẫn đến mô hình được chấp nhận rộng rãi nhất và hợp lý nhất về sinh học, là thuyết “rời khỏi châu Phi” (Out-of-Africa). Thuyết này cho rằng loài người hình thành ở châu Phi và phát tán ra khắp thế giới theo nhiều đợt[13], thể hiện thống trị trên các trang wiki về “Human evolution”. Nó làm đảo lộn nhiều giả thuyết trước đây vốn dựa trên thuyết nguồn gốc đa vùng.
Đợt phát tán đầu tiên là cuộc vượt Biển Đỏ của cỡ 150-300 người, xảy ra vào quãng giữa 120 – 60 Ka BP, chiếm lĩnh vùng Cận Đông. Họ phát triển và phát tán về phía đông, đến tận Úc, thể hiện ở hóa thạch Mungo Man 40 Ka BP, và là tổ tiên của thổ dân châu Úc (Aborigine) hiện nay. Rosenberg và các nhà khoa học TQ (2002) thì công bố hóa thạch người tại Liu Jiang (Quảng Tây, TQ, phát hiện 1958) định được tuổi là 67 Ka?[14]. Mặt khác các học giả nói chung đã cho rằng thổ dân Úc không phải là họ hàng gần nhất của một số nhóm người Nam Á hoặc nhóm châu Phi. Mô hình di cư cho thấy tại nơi mà tổ tiên của họ đi qua Nam Á đến Australia mà không pha lẫn di truyền với các quần thể khác trên đường đi[15]. Kỹ thuật di truyền cho thấy hồi 60 Ka BP, số lượng người hiện đại trên toàn hành tinh chỉ khoảng 10 ngàn trong độ tuổi sinh sản[16]. Điều này cho thấy hồi 40 Ka BP thì vùng Đông Nam Á tới Australia đã có người nhưng với mật độ thưa thớt. Họ là những Hoabinhian hay “Proto-Malay”, bộ phận còn sót đến ngày nay là những người Negrito.
Liên quan đến đợt di cư sau tới vùng Đông Á thì nghiên cứu gen của Chu J.Y. và cộng sự (1998), cho ra nhiều ý nghĩa[17], thể hiện ở nhận xét “Phát sinh chủng loài học cũng cho rằng có nhiều khả năng tổ tiên của người hiện đang cư trú tại khu vực Đông Á đến từ Đông Nam Á”. Các nghiên cứu Y-DNA sau này (2007)[18] thì cho thấy “Sự phổ biến của nhóm đơn bội O1 Y-DNA trong số các sắc tộc Nam Đảo và Thái cũng gợi ý về nguồn gốc tổ tiên chung với các dân tộc Hán-Tạng, Nam Á và H’Mông-Miền vào khoảng 35 Ka BP tại Trung Quốc”. Điều này phụ họa với thuyết Out-of-Africa, rằng các nhóm thuộc pro-mongoloid đã hình thành đâu đó ở phía đông của vùng Trăng lưỡi liềm màu mỡ (Fertile Crescent) đến vùng sông Hằng, và đã Đông tiến, một bộ phận theo đường Altai đến Trung Bắc Á, còn bộ phận khác qua Ấn Độ đến Đông Á và Đông Nam Á. Bằng chứng khảo cổ cho thấy người tiền sử đến nam Trung Quốc qua đường Vân Nam từ hơn 30 Ka BP.
Các nghiên cứu gen tốn kém nên tại Việt Nam ít được thực hiện. Một số được thực hiện với sự tài trợ của nước ngoài (Pháp), như nghiên cứu DNA của Vu – Trieu (1997)[19] hay nghiên cứu mtDNA của Ivanova (1999)[20] lại cho ra kết quả [e] bị phê phán, vì đã chọn số gen ít, không đặc trưng[21], và đặc biệt là lấy mẫu từ người Kinh ở Hà Nội, vốn có nguồn gen phức tạp, có sự tiếp nhận gen từ dòng người Hoa nhập Việt qua ngàn năm bắc thuộc và ngàn năm phong kiến sau đó. Đáng ra họ phải lên vùng núi mà lấy mẫu ở người Mường.
Dẫu vậy thì các nhà nghiên cứu hiện nay đã vận dụng thành tựu chung của thế giới về thuyết Out-of-Africa và công nghệ phân tích gien di truyền. Nguồn gốc các dân tộc cần xác định ở dòng chảy chung của quá trình phát tán đông tiến của những người proto-Austro-Asiatic từ tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu vào cỡ 30-40 Ka BP, lúc xảy ra các chủng Indo-European xâm lấn. Trên đường phát tán chung thì một số thị tộc proto-Austro-Asiatic trụ lại đâu đó và tồn tại đến ngày nay ở phía đông Ấn Độ, như các chủng nói tiếng Munda, Khasi thuộc ngữ hệ Nam Á. Bộ phận lớn thì chiếm lĩnh dải từ nam Myanmar, trung Thái Lan đến phía Đông bán đảo Đông Dương, phát triển thành các dân tộc Môn-Khmer hiện nay.[f][22] Theo nghiên cứu năm 2019 về bộ gen của người Việt thì cho rằng loài người hiện đại đã di cư từ châu Phi từ 200.000 năm trước, khoảng 40.000 – 60.000 năm trước đã đến cư trú tại Việt Nam, sau đó tiếp tục di cư lên các nước Đông Á[23].
Tuy nhiên theo một nghiên cứu và điều tra mới gần đây trái với nhận định và đánh giá của viện nghiên cứu tế bào gốc-công nghệ gen Vinmec ( VRISG ). Năm 2019, viện nghiên cứu và điều tra hệ gen Việt Nam hợp tác với viện nhân chủng và tiến hóa Max Planck ( Đức ), phòng thí nghiệm động lực học ngôn từ của Đại học Lion ( Pháp ) năm 2020 đã chứng tỏ tổ tiên người Việt có nguồn gốc đa phần là những người Đông Á cổ đại trong làn sóng di cư từ miền Nam Trung Quốc về khu vực Bắc Bộ Việt Nam và trải dài khắp Khu vực Đông Nam Á từ 2.500 – 4.000 năm trước. [ 24 ] [ 25 ] Với số lượng mẫu, quy mô nghiên cứu và điều tra lớn hơn và có độ đáng tin cậy cao, được cộng đồng khoa học quốc tế bình duyệt đăng tải trên tạp chí MBE sinh học phân tử và tiến hoá, khu công trình này đã mở ra một hướng đi mới trong việc điều tra và nghiên cứu nguồn gốc của người Việt. [ 26 ] [ 27 ]
Ngôn ngữ học[sửa|sửa mã nguồn]
Ngôn ngữ có vai trò thiết yếu trong việc phân loại những tộc người và theo dõi sự tiến hóa của những nhóm dân cư thân thiện nhau về mặt nhân chủng, được chứng minh và khẳng định là bằng chứng chỉ đứng sau di truyền học bởi nhà nghiên cứu L. Cavalli-Sforza. [ 28 ] Dựa trên dấu vết ngôn từ mà ta hoàn toàn có thể đoán được sự phân bổ khoảng trống của những dân tộc bản địa lân cận nhau trong lịch sử .
Dấu vết ngôn từ trong tiếng Hán[sửa|sửa mã nguồn]
Một số nhà nhân chủng ngôn ngữ học đã xác định “một số từ Trung Quốc có gốc rễ từ các từ Việt cổ”, như “giang” (江) có nghĩa là sông (như trong Dương Tử Giang).[cần dẫn nguồn] 越, 粵, 鉞 trong chữ Hán cổ đều có âm là “việt” và cùng nghĩa có thể thay thế lẫn nhau được. Ngày nay 鉞, “lưỡi rìu dùng trong nghi lễ” và có thể tìm thấy rất nhiều ở Hàng Châu, Chiết Giang, là một phát minh của phương Nam; 粵 là tên gọi tắt cho tỉnh Quảng Đông; còn 越 chỉ Việt (Việt Nam) hoặc khu vực bắc Chiết Giang bao quanh Thiệu Hưng và Ninh Ba. Các tên gọi có thể có nguồn gốc phương Nam như Thần Nông, Nữ Oa vì không theo ngữ pháp tiếng Hoa.[cần dẫn nguồn]
Những biểu hiện này được các nhà nghiên cứu nói trên coi là bằng chứng về lãnh thổ Việt cổ ở phương bắc, cũng như để truy tìm cội nguồn dân tộc. Tuy nhiên nó không có tiếng vọng tới các nghiên cứu và văn liệu quốc tế. Nó thể hiện có các điểm yếu:[cần dẫn nguồn]
Diễn tiến của tiếng Việt[sửa|sửa mã nguồn]
Tiếng Việt đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước xác định là thuộc ngữ chi Việt (Vietic)[29] cùng với tiếng Mường và tiếng của một số sắc dân thiểu số Nguồn, Chứt (Cheut), Pọng ở dãy núi Trường Sơn hay Thaveung (Aheu), Arem, Maleng,… ở trung & nam Lào, thuộc khối Việt-Katu của Nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, trong ngữ hệ Nam Á (Austro-Asiatic Languages), cũng như tiến trình phát triển và phân nhánh ngôn ngữ:[cần dẫn nguồn]
- Austro-Asiatic → Đông Môn-Khmer → proto Việt-Katu → proto Việt Chứt → Việt Mường chung → Phân tách Việt Mường (Tk 12).
Quá trình phân tách tiếng Việt với tiếng Mường diễn ra từ Tk 7-8 và kết thúc ở Tk 12 ( thời nhà Lý ). Sự phân tách người Kinh khỏi khối Việt-Mường được xác lập là do ảnh hưởng tác động của quy trình Hán hóa cả về ngôn từ và di truyền xảy ra trong thời kỳ Bắc thuộc. Nó cho thấy nghiên cứu và điều tra sinh học phân tử ở người Kinh dễ bị lỗi nếu không chọn được cách lấy mẫu tương thích. Các luận bàn về ngôn từ được nêu ở một đoạn ở bài của Bùi Xuân Đính. [ 30 ]
Tiến trình này cho thấy nguồn gốc các dân tộc Việt cổ gắn với sự phát tán đông tiến của các dân tộc Nam Á, đặc biệt là nhóm Môn-Khmer, và là phù hợp với bằng chứng sinh học phân tử và thuyết “từ châu Phi”. Trong quá trình đông tiến này, phần lớn dân nhóm Môn-Khmer tiến đến trung phần bán đảo Đông Dương. Riêng các thị tộc “proto Việt Chứt” đã hình thành ở đâu đó, rồi sau đó, bộ phận tiến đến vùng Bắc Việt ngày nay hình thành ra người Việt Mường cổ, còn các thị tộc tổ tiên của người Thaveung (Aheu), Arem, Maleng,… dừng lại ở trung & nam Lào, còn người Nguồn, Chứt (Cheut), Pọng thì đến dãy núi Trường Sơn, Quảng Bình.
Văn hóa dân gian[sửa|sửa mã nguồn]
Các thần thoại cổ xưa[sửa|sửa mã nguồn]
Truyền thuyết ” Con Rồng cháu Tiên ” nói về nguồn gốc của dân tộc bản địa Việt .
Các tập tục[sửa|sửa mã nguồn]
Các tập tục : ăn trầu, nhuộm răng, … hiện hữu ở những dân tộc bản địa vùng nhiệt đới gió mùa, nơi trầu cau tăng trưởng, từ Ấn Độ qua Khu vực Đông Nam Á đến thổ dân Đài Loan, và người Austronesia ở những hòn đảo phía nam. Những dân tộc bản địa này có ngôn từ thuộc hai ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo .
Tập tục ăn trầu, và tích “Kulabob và Manup” tương tự như Sơn Tinh Thủy Tinh, Trầu Cau ở Việt Nam, có mặt ở những vùng xa phía nam như New Guinea, được Stephen Oppenheimer nêu trong cuốn “Địa đàng ở phương Đông”.[31]
Những dấu tích này gợi ý đến tổ tiên của những dân tộc bản địa đã từng san sẻ khoảng trống chung ở đâu đó, hoàn toàn có thể là Ấn Độ như nghiên cứu và điều tra ” Y-DNA, 2007 ” đã nêu [ 18 ] .
Các giả thuyết[sửa|sửa mã nguồn]
Thuyết thứ nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Theo một số học giả Pháp:[ai nói?] Thuyết này cho rằng người Việt Nam phát tích từ xứ Tây Tạng[2] rồi dọc theo sông Nhị Hà tràn xuống miền trung châu Bắc Việt và phía Bắc xứ Trung Việt ngày nay. Sau những người này theo đà ấy tiến dần về phía Nam.
Thuyết thứ hai[sửa|sửa mã nguồn]
Theo học giả người Pháp – Louis Finot (1864-1935): Thuyết này dựa trên kiến thức chung về quá trình giống Indonesian (Cổ Mã Lai) xưa cư trú ở tiểu lục địa Ấn Độ, bị giống Aryan (nay gọi là Ấn-Âu) xâm lấn (hồi 30 – 50 Ka BP), nên phải chạy sang phía đông, trong đó có bán đảo Trung Ấn.
Finot cho rằng tại phía đông bắc bán đảo, giống Indonesian hợp với giống Mongoloid làm thành giống Việt Nam. [ 32 ]
Thuyết này đề cập đến nguồn gốc dân tộc Việt từ thời đại đồ đá, từ 7 Ka BP trở về trước, trong quá trình phát tán chung của loài người. Tuy nhiên nó không giải thích được thành tố ngôn ngữ khi “hợp giống”, tức là từ vựng cơ bản của “giống Việt Nam” phải chứa một lượng nào đó từ vựng của các giống gốc, nên không được một số học giả tán thành.[33]
Để ý rằng “hợp giống” hay “hòa huyết” là cách duy nhất các nhà cổ nhân chủng trước đây sử dụng để giải thích sự hiện diện của một chủng tộc có các biểu hiện nhân chủng trung gian nằm giữa hai chủng tộc khác trên nền tảng của thuyết nguồn gốc đa vùng của người hiện đại. Ngày nay dựa trên thuyết “một trung tâm từ châu Phi”, các chủng tộc tiến hóa theo mô hình cây tiến hóa xác định theo các bằng chứng sinh học phân tử và tiến hóa của ngôn ngữ, mà không cần đến cách giải thích “hợp giống”. Vì thế bỏ qua điểm yếu “hợp giống” thì giả thuyết Finot là hợp lý.[cần dẫn nguồn]
Nó được diễn giải là hơn 30 Ka BP những giống Indonesian phát tán từ tiểu lục địa Ấn Độ về phía đông [ g ]. Một bộ phận qua Vân Nam lên Trung Quốc như Chu J.Y. đã nêu [ 17 ]. Các nhóm Môn-Khmer phát tán đến dải từ nam Myanmar, trung xứ sở của những nụ cười thân thiện [ f ] đến bán đảo Đông Dương, và là tổ tiên của 21 dân tộc bản địa thuộc nhóm này tại Trung phần Việt Nam. Một phần nhóm Môn-Khmer phía đông, gồm proto – Khmu và proto-Vietic đã đi xa hơn về phía đông bắc bán đảo Đông Dương, trong đó dân cư proto-Vietic sở hữu được vùng trung du và đồng bằng Bắc Việt [ h ] nên có nhiều điều kiện kèm theo thuận tiện để tăng trưởng. Những thị tộc proto-Vietic chọn hướng phát tán khác, hay trụ lại đâu đó giữa quy trình phát tán, ít tăng trưởng nhưng vượt qua được thời hạn và còn sống sót đến ngày này, là những dân tộc thiểu số như Nguồn, Chứt, Thaveung ( Aheu ), Arem, Maleng, … ở dãy núi Trường Sơn và trung và nam Lào. [ 34 ]
Thuyết thứ ba[sửa|sửa mã nguồn]
Theo sử sách Trung Hoa, Việt Nam:[cần ví dụ] Giả thuyết được phổ biến rộng rãi nhất nói rằng người Việt Nam xưa gốc ở miền từ hạ lưu sông Dương Tử tới miền bắc Việt Nam, gồm nhiều nhóm cư trú ở các nơi khác nhau mà gọi chung là Bách Việt. Về sau bị người Hoa Hạ tràn xuống xâm lấn lãnh thổ, các nhóm này dần dần bị đồng hóa thành người Hán. Chỉ còn nhóm Lạc Việt ở miền Bắc Việt Nam là còn tồn tại được, chính là tổ tiên của người Việt ngày nay.[cần dẫn nguồn]
Thuyết này đã coi Bách Việt là dân cư địa phương, [ 1 ] mà không đề cập đến nguồn gốc những dân tộc bản địa này từ thời đại đồ đá ( 7000 TCN ) quay trở lại trước .
Biến động dân tộc bản địa từ khi giành độc lập[sửa|sửa mã nguồn]
Người Việt Nam đang sống trên chủ quyền lãnh thổ Việt Nam lúc bấy giờ là tập hợp những hội đồng người Kinh chiếm hầu hết ( 82 % ) và 53 hội đồng người thuộc sắc tộc thiểu số. Người Kinh không phải là một hội đồng dân tộc bản địa thuần nhất về mặt nguồn gốc, mà là tập hợp của hàng chục sắc tộc đã từng lai tạp đồng điệu với nhau trong quá khứ của ba hội đồng chính, nhưng ngày này đều có chung một đặc tính thống nhất về phong tục tập quán và sử dụng trọn vẹn tiếng Việt. Nghiên cứu di truyền nhân chủng học chỉ ra rằng cả ba hội đồng người Việt khá thuần nhất và khoảng cách di truyền gần với những người nói tiếng Tày-Thái ( gồm có những người Tày Nùng ở Việt Nam và Choang ở Trung Quốc ) hơn là những người Chăm hay Khmer [ 35 ] .
Các tranh luận[sửa|sửa mã nguồn]
Việc dựng lại thời tiền sử từ những chứng cứ đa ngành rời rạc và không hẳn khớp nhau, dẫn đến những kiến giải khác nhau về nguồn gốc các dân tộc, tùy thuộc trường phái của học giả. Mặt khác ở một số nước đông và đông nam Á, chủ nghĩa dân tộc và hoạt động đồng hóa vào văn hóa thống trị (ví dụ Thái hóa hay Thaification) đưa đến những diễn giải lịch sử theo định hướng cầm quyền. Nó làm cho ở các quốc gia khác nhau thì thời tiền sử và cả lịch sử của một vùng nào đó có thể được mô tả khác nhau. Liên quan đến nguồn gốc các dân tộc ở Việt Nam, sự khác nhau xảy ra trong khái niệm người tiền sử, vùng cư trú, và người Việt từ đâu tới.
Người Việt cổ[sửa|sửa mã nguồn]
Giới khảo cổ học chính thống Việt Nam có kết quả khảo sát về các di chỉ người tiền sử tại Việt Nam, cho rằng tổ tiên của người Việt đã sinh sống lâu đời tại đây dựa trên sự liên tục địa tầng[36][37].
Năm 2016, Viện Khảo cổ học công bố “Phát hiện chấn động về người Việt cổ cách nay 80 vạn năm ở Gia Lai”, là kết quả nghiên cứu hợp tác với Viện Khảo cổ học – Dân tộc học Novosibirsk, Viện Hàn lâm Khoa học Nga, khảo sát di tích thời đại Đá cũ ở thị xã An Khê [38]. Sau đó năm 2018 công bố lại tại Huế về “người tiền sử An Khê cách đây 800.000 năm”, và được truyền thông chính thống tán thưởng [39].
Một số nhà nghiên cứu ngoài viện, như Hà Văn Thùy, phản bác Kết luận này [ 40 ]. Về logic thì 800 Ka trước người văn minh ( Homo Sapiens ) chưa sống sót mà chỉ có người đứng thẳng Homo Erectus, và người Homo Erectus ngày này đã tuyệt chủng, cho nên vì thế và để coi ” người tiền sử An Khê ” là tổ tiên ” người Việt ” thì cần nhiều vật chứng hơn nữa lấp kín thời hạn 800 KA, chứ không hề gán ghép thô thiển như vậy .
Mặt khác lý thuyết hiện đại nêu rằng loài homo sapiens ra đời cách nay 200 Ka, và di cư đến Đông Nam Á trong 2 đợt vào cỡ 70 và 30 Ka BP. Phát hiện An Khê này không có các mẩu xương để phân tích DNA, nên chỉ có thể coi là một điểm có hóa thạch 800 Ka ứng với Homo erectus vào bản đồ thế giới các di chỉ, nêu trong mục Danh sách các hóa thạch tiến hóa của con người.
Phạm vi phân bố[sửa|sửa mã nguồn]
Vùng cư trú ( chủ quyền lãnh thổ ) của người Việt cổ là chủ đề có nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có yếu tố vùng ” Bách Việt ” có quan hệ như thế nào đến người Việt cổ .
Lãnh thổ truyền thuyết của người Việt cổ là nước Xích Quỷ, được nói là “phía bắc giáp hồ Động Đình”, hay là vùng phía nam sông Trường Giang trở xuống [41]. Vùng có phần chung với vùng hồi đầu công nguyên gọi là Bách Việt, là vùng được lý giải giữa “trăm tộc” và “trăm công quốc”. Đó cũng là vùng được coi là nơi Các sắc tộc Thái hình thành, cư trú và từ đó phát tán, nhưng người Thái Lan không nhắc đến từ “Việt” [42].
Phần lớn Bách Việt đến nay đã sáp nhập và đồng hóa vào Trung Quốc, nay cố gắng đồng hóa cả phần lịch sử. Dịp từ giữa tháng 12/1998 đến 3/1999 nhân kỷ niệm 10 năm kết nghĩa giữa hai thành phố Fankfurt (Đức) và Quảng Châu (Trung Quốc), cuộc triển lãm có tên là “Schätze für König Zhao Mo – Das Grab von Nan Yue” (Bảo vật vua Triệu Mộ – lăng mộ vua Nam Việt) được tổ chức tại Fankfurt và München.[43]
Hàng ngàn vật tọa lạc là cổ vật đồ tùy táng trong ngôi mộ, như trống đồng, thạp đồng, gương đồng, đồ gốm, ngọc bích … được người Trung Quốc ra mắt là đưa từ ” Tây Hán Việt Vương mộ bác vật quán “. Tuy nhiên những chuyên viên khảo cổ học và cổ sử người Đức đã khẳng định chắc chắn những tọa lạc là đặc trưng của văn hóa truyền thống Đông Sơn do dân Lạc Việt thời Hùng Vương chế tác, và đã sửa tên tiếng Đức của triển lãm. [ 43 ]Hoàn cảnh như vậy ngăn ngừa năng lực điều tra và nghiên cứu xác định truyền thuyết thần thoại về Bách Việt .
- Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội tái bản, Hà Nội, 2011
- Nguyễn Đình Khoa, Nhân chủng học Đông Nam Á, Nhà xuất bản ĐH và THCN, 1983
- Phạm Đức Dương, Văn hóa học đại cương và cơ sở VHVN, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1996
- Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc VHVN, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2001
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]