Nguồn : ITN
|
Văn bản này không có định nghĩa về xã hội hóa cũng như vai trò của cộng đồng mà đa số nói về nghĩa vụ và trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên và môi trường của tổ chức triển khai và cá thể. Đôi khi nhắc tới cộng đồng dân cư nhưng không có lý giải rõ ràng đơn cử dẫn tới thực trạng những đối tượng người tiêu dùng vận dụng còn lúng túng khi thực thi luật. Cộng đồng dân cư là gì ? Là tổ chức triển khai hay cá thể ? Các tổ chức triển khai chính trị xã hội, tổ chức triển khai xã hội nghề nghiệp có phải là cộng đồng hay không cũng là do dự của nhiều chuyên viên .
Luật BVMT 2005 đã xác lập đối tượng người tiêu dùng vận dụng của luật là cơ quan nhà nước, tổ chức triển khai, hộ mái ấm gia đình, cá thể trong nước ; người Nước Ta định cư ở quốc tế, tổ chức triển khai, cá thể quốc tế hoạt động giải trí trên chủ quyền lãnh thổ Nước Ta nhưng không có sự phân biệt mạch lạc giữa cộng đồng và những thành phần không thuộc cộng đồng. Trong khi khái niệm cộng đồng đã được pháp luật rõ trong quá trình quản trị môi trường tự nhiên ở những nước tăng trưởng. Bên cạnh đó, thuật ngữ cộng đồng không được sử dụng đồng nhất trong văn bản pháp lý này cũng là điểm sống sót, hạn chế cần khắc phục. Đơn cử như lao lý tại Điều 17, 105, 128 coi đối tượng người dùng vận dụng là “ tổ chức triển khai, cá thể ” tới những pháp luật khác lại sử dụng thuật ngữ “ cộng đồng dân cư ”, “ nhân dân ”, “ công dân ”. “ Những thuật ngữ này không ít biểu lộ cái gọi là cộng đồng ” – một chuyên viên nhấn mạnh vấn đề .
Ts Nguyễn Văn Phương, ĐH Luật Hà Nội cho rằng, mỗi văn bản pháp luật lại có khái niệm khác nhau về cộng đồng, Luật Đất đai quan niệm cộng đồng theo hướng này, Luật Dân sự xác định theo hướng kia. Điều đó có nghĩa là không thể coi khái niệm cộng đồng ở văn bản pháp luật khác là cơ sở để xác định nội hàm về cộng đồng trong Luật BVMT.
Theo các chuyên gia môi trường, cộng đồng là “một nhóm công dân chung sống tại một khu vực địa lý, cùng chia sẻ một hệ thống giá trị, các nhu cầu và lợi ích chung”. Xét trên bình diện quản lý môi trường, đây là nhóm công dân trong xã hội không phải những người gây ô nhiễm cũng không phải nhà quản lý. Nhóm công dân ấy chịu sự ô nhiễm và suy thoái môi trường do doanh nghiệp gây ra và chịu sự quản lý nhà nước của các cấp chính quyền. Họ có quyền lợi chung về môi trường, có trách nhiệm và sáng kiến trong bảo vệ môi trường.
“ Đây cũng là một trong ba cực của quy mô tam giác về quản trị thiên nhiên và môi trường gồm : chính quyền sở tại – người gây ô nhiễm – cộng đồng. Như vậy khái niệm này không ít tương ứng với khái niệm xã hội dân sự. Nói không ít là bởi xã hội dân sự không gồm có thể chế mái ấm gia đình trong khi đây lại là một bộ phận quan trọng của cộng đồng ” – Ts Nguyễn Đình Hòe nhấn mạnh vấn đề .
Như vậy, chỉ khi nào khái niệm quan trọng này được xác lập đơn cử thì vai trò của cộng đồng trong công tác làm việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường mới thực sự được ghi nhận không thiếu, tiến tới hình thành quy mô “ đồng quản trị ” hay “ biến quản trị thành tự quản lý ” của nền kinh tế thị trường .
Thực tế cho thấy, chính việc xác lập chưa rõ nội hàm “ cộng đồng ” đã khiến Luật BVMT 2005 vẫn đa phần sử dụng quy mô quản trị “ một chiều từ trên xuống ” vốn tương thích với nền hành chính bao cấp. Trong khi trên quốc tế, quy mô quản trị theo nền kinh tế thị trường đã được vận dụng thoáng đãng tại nhiều nước và vị trí của cộng đồng cũng được đặc biệt quan trọng coi trọng .