Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Na Uy (tiếng Na Uy: Norges kvinnelandslag i fotball) là đội bóng nữ đại diện cho Hiệp hội bóng đá Na Uy trên bình diện quốc tế trong các trận thi đấu giao hữu quốc tế cũng như trong Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu của UEFA và Giải vô địch bóng đá nữ thế giới do FIFA tổ chức.
Đội bóng đá nữ quốc gia Na Uy là một trong các đội tuyển bóng đá nữ có nhiều thành tích trên thế giới. Đội từng là á quân Giải vô địch bóng đá nữ thế giới năm 1991 và vô địch năm 1995, vô địch Thế vận hội Mùa hè 2000 và vô địch châu Âu vào các năm 1987 và 1993.
Đội tuyển bóng đá nữ vương quốc Na Uy ra đời vào năm 1978 tại giải vô địch Nordic, thời gian hoàn toàn có thể coi là khá sớm so với những nước Tây Âu, nhưng là muộn so với những nước Nordic, và chỉ sớm hơn Iceland. Na Uy phải nỗ lực nhiều mới hoàn toàn có thể bắt kịp những đội Thụy Điển và Đan Mạch. Trong tiến trình đầu họ liên tục thất bại trước những đội láng giềng cho tới khi có trận thắng tiên phong trước Bắc Ireland .Dần dần, Na Uy khởi đầu trở thành một đội tuyển mạnh tại châu Âu. [ 3 ] Tại vòng loại của Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu năm 1984 ( khi đó có tên là Giải những đội tuyển nữ đại diện thay mặt châu Âu ), Na Uy cùng bảng với Thụy Điển, Phần Lan và Iceland. Na Uy thua cả hai trận trước Thụy Điển, nhưng vượt qua Phần Lan trong cả hai lượt. Dù hòa ở trận lượt đi với Iceland nhưng thắng lợi ở lượt về bảo vệ cho Na Uy vị trí nhì bảng ( tuy nhiên vẫn bị loại vì chỉ đội đầu bảng được đi tiếp ). Đội đầu bảng Thụy Điển sau đó cũng chính là đội vô địch Euro tiên phong. Na Uy liên tục cải tổ thành tích, họ hạ Đan Mạch và Tây Đức để vượt qua vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1987. Na Uy sau đó được chọn tổ chức triển khai những trận tại vòng chung kết năm 1987. Họ vượt qua Ý tại bán kết và gặp Thụy Điển trong trận chung kết, nơi họ lần tiên phong vượt mặt đối thủ cạnh tranh với tỉ số 2 – 1. Đội tuyển bóng đá nữ vương quốc Na Uy trở thành đội tuyển thể thao tiên phong của Na Uy giành chức vô địch quốc tế, điều phải 11 năm sau đội tuyển bóng ném nữ vương quốc Na Uy mới lặp lại .
Tại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1989 Na Uy tiếp tục vào trận chung kết, lần này với Tây Đức, nhưng thua với tỉ số cách biệt 1–4. Sau trận thua này các huận luyện viên khác từ chức và Even Pellerud lên nắm quyền. Pellerud đưa Na Uy lọt vào vòng chung kết Giải vô địch bóng đá nữ thế giới đầu tiên vào năm 1991. Trước đó cũng trong năm 1991, Na Uy lọt trận chung kết thứ ba liên tiếp của giải vô địch châu Âu (cũng là vòng loại World Cup nữ) gặp Đức. Lần này họ lại bị Đức vượt qua trong hiệp phụ với tỉ số 3-1. Tại giải vô địch thế giới Na Uy lọt vào tới bán kết nơi họ chịu dừng bước trước đội tuyển Mỹ. Hai năm sau tại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 1993, Na Uy lần lượt vượt qua Đan Mạch tại bán kết và Ý tại chung kết để lần thứ hai lên ngôi vô địch châu Âu. Họ tiếp nối chiến quả này bằng chức vô địch giải bóng đá giao hữu ở Algarve đầu tiên được tổ chức năm 1994. Tại giải vô địch nữ châu Âu đồng thời là vòng loại World Cup một năm sau, dù dừng bước tại bán kết trước kình địch Thụy Điển với tổng tỉ số 5–7 sau hai lượt trận, tuy nhiên Na Uy vẫn có suất dự World Cup 1995.
Tại vòng bảng Giải vô địch quốc tế 1995 ở Thụy Điển, Na Uy toàn thắng cả ba trận để gặp một Đan Mạch bất bại tại vòng bảng ở tứ kết. Na Uy thuận tiện vượt qua đối thủ cạnh tranh 3 – 1. Na Uy liên tục vượt qua Hoa Kỳ trong trận bán kết căng thẳng mệt mỏi được quyết định hành động bởi bàn thắng duy nhất của Ann Kristin Aarønes ở đầu hiệp một. Na Uy gặp đối thủ cạnh tranh kỵ giơ Đức trong trận chung kết. Mặc dù từng hai lần thua tại chung kết Euro, Na Uy vẫn vượt qua Đức bằng hai bàn thắng trong vòng bốn phút và trở thành nhà vô địch quốc tế. Pellerud từ nhiệm không lâu sau đó. [ 4 ] Chức vô địch này giúp Na Uy xuất hiện tại Thế vận hội Mùa hè 1996, thế vận hội tiên phong bóng đá nữ được tổ chức triển khai. Họ hòa Brasil, vượt mặt Đức và Nhật để tiến vào bán kết, nơi họ thua Mỹ trong hiệp phụ nhưng vẫn giành được chiếc huy chương đồng an ủi trước Brasil .Vòng chung kết Euro 1997 trên sân nhà lại là một giải đấu thất bại của nhà đương kim vô địch quốc tế khi chỉ tới bán kết. Tại Giải vô địch bóng đá nữ quốc tế 1999, Na Uy vượt qua tổng thể những đối thủ cạnh tranh tại vòng bảng cũng như không gặp nhiều khó khăn vất vả để lọt vào bán kết sau khi hạ Thụy Điển 3 – 1 ở tứ kết. Tuy nhiên giật mình xảy đến khi họ bị Trung Quốc hạ gục 5 – 0, trở thành một trong hai trận thua đậm nhất của Na Uy tới nay ( Na Uy thua Thụy Điển cùng tỉ số này 13 năm trước đó ). Trong trận tranh huy chương đồng, họ liên tục thất bại trước Brasil trên chấm phạt đền. Mặc dù không được nhìn nhận cao tại Thế vận hội Sydney 2000 và thua Mỹ ngay trận đầu ra quân, Na Uy vẫn có những thắng lợi trước Nigeria và Trung Quốc để lọt vào vòng bán kết. Tại đây Na Uy hạ Đức nhờ bàn phản lưới nhà của Tina Wunderlich dù bị Đức ép sân cả trận. Trận chung kết với Mỹ là một trận đấu mê hoặc. Tiffeny Milbrett đưa Mỹ dẫn trước, nhưng Na Uy vượt lên dẫn 2 – 1 sau bàn thắng của Gro Espeseth và cú đánh đầu của Ragnhild Gulbrandsen. Tuy nhiên Milbrett một lần nữa lên tiếng với bàn gỡ hòa ở những phút bù giờ buộc trận đấu bước sang hiệp phụ. Tuy nhiên Na Uy sau cuối cũng có tấm huy chương vàng Olympic nhờ bàn thắng vàng gây tranh cãi. [ 5 ]Sau chức vô địch Thế vận hội Na Uy lần lượt dừng bước tại bán kết và tứ kết của Giải vô địch châu Âu 2001 và Cúp quốc tế 2003. Điểm sáng lớn nhất là việc giành ngôi á quân Euro 2005. Tại Giải vô địch bóng đá nữ quốc tế 2007 tại Trung Quốc, họ hòa Úc, Canada và Ghana để đứng đầu vòng bảng. Họ tiến vào bán kết sau thắng lợi chủ nhà Trung Quốc 1 – 0, nhưng thua 0 – 3 trước Đức. Trong trận tranh giải ba Na Uy thua 1 – 4 trước Mỹ và đành đồng ý vị trí thứ bốn chung cuộc, tuy nhiên vẫn đủ điều kiện kèm theo dự Thế vận hội tại Băc Kinh. Trong lần thứ hai liên tục tại Trung Quốc, dù thắng lợi trước Hoa Kỳ, họ lại thua đậm Nhật Bản 1 – 5 và bị loại tại tứ kết bởi Brasil. Vào tháng 10 năm 2008, năm cầu thủ phủ nhận triệu tập đội tuyển vì sự không tương đồng với huấn luyện viên Bjarne Berntsen. Mặc dù vậy Na Uy vẫn đạt thành tích đồng ý được tại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2009 khi đi tới trận bán kết .Eli Landsem, nữ huấn luyện viên trưởng tiên phong của đội, lên nắm quyền vào cuối 2009. Những cầu thủ từng phủ nhận lên tuyển cũng đã trở lại. Na Uy tiến tới Giải vô địch bóng đá nữ quốc tế 2011 sau thành tích bất bại tại vòng loại. Tuy nhiên Na Uy để lại tuyệt vọng lớn khi không vượt qua vòng bảng. [ 6 ] Na Uy khởi đầu vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2013 với hai thất bại cùng tỉ số 1 – 3 trước Iceland và Bắc Ireland, nhưng mạch toàn thăng 8 trận sau đó vẫn giúp họ xuất hiện tại Thụy Điển. [ 7 ] Tại đây Na Uy tranh tài thuyết phục và kết thúc giải ở vị trí á quân sau Đức .Tại vòng chung kết Giải vô địch bóng đá nữ quốc tế năm ngoái, Even Pellerud một lần nữa nắm đội và giúp Na Uy vượt qua bảng đấu có sự góp mặt của Đức. Tuy nhiên họ sớm phải dừng game show khi bị Anh lội ngược dòng 1 – 2 tại vòng 1/8 .
Giải vô địch bóng đá nữ quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Năm
|
Thành tích
|
Số trận
|
Thắng
|
Hòa
|
Thua
|
Bàn thắng
|
Bàn thua
|
1991 |
Á quân |
6 |
4 |
0 |
2 |
14 |
10
|
1995 |
Vô địch |
6 |
6 |
0 |
0 |
23 |
1
|
1999 |
Hạng tư |
6 |
4 |
1 |
1 |
16 |
8
|
2003 |
Tứ kết |
4 |
2 |
0 |
2 |
10 |
6
|
2007 |
Hạng tư |
6 |
3 |
1 |
2 |
12 |
11
|
2011 |
Vòng bảng |
3 |
1 |
0 |
2 |
2 |
5
|
2015 |
Vòng 16 đội |
4 |
2 |
1 |
1 |
9 |
4
|
2019 |
Tứ kết |
5 |
2 |
1 |
2 |
7 |
7
|
2023 |
Vượt qua vòng loại |
|
|
|
|
|
|
Tổng cộng |
9/9 |
40 |
24 |
4 |
12 |
93 |
52
|
Thế vận hội Mùa hè[sửa|sửa mã nguồn]
Năm
|
Thành tích
|
Số trận
|
Thắng
|
Hòa
|
Thua
|
Bàn thắng
|
Bàn thua
|
1996 |
Hạng ba |
5 |
3 |
1 |
1 |
12 |
6
|
2000 |
Vô địch |
5 |
4 |
0 |
1 |
9 |
6
|
2004 |
Không vượt qua vòng loại
|
2008 |
Tứ kết |
4 |
2 |
0 |
2 |
5 |
7
|
2012 |
Không vượt qua vòng loại
|
2016
|
2020
|
Tổng cộng |
3/6 |
14 |
9 |
1 |
4 |
26 |
19
|
Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu[sửa|sửa mã nguồn]
Năm
|
Thành tích
|
Số trận
|
Thắng
|
Hòa
|
Thua
|
Bàn thắng
|
Bàn thua
|
1984 |
Không vượt qua vòng loại
|
1987 |
Vô địch |
2 |
2 |
0 |
0 |
4 |
1
|
1989 |
Á quân |
2 |
1 |
0 |
1 |
3 |
5
|
1991 |
Á quân |
2 |
0 |
1 |
1 |
1 |
3
|
1993 |
Vô địch |
2 |
2 |
0 |
0 |
2 |
0
|
1995 |
Bán kết |
2 |
1 |
0 |
1 |
5 |
7
|
1997 |
Vòng bảng |
3 |
1 |
1 |
1 |
5 |
2
|
2001 |
Bán kết |
4 |
1 |
1 |
2 |
4 |
3
|
2005 |
Á quân |
5 |
2 |
1 |
2 |
10 |
10
|
2009 |
Bán kết |
5 |
2 |
1 |
2 |
6 |
9
|
2013 |
Á quân |
6 |
3 |
2 |
1 |
7 |
4
|
2017 |
Vòng bảng |
3 |
0 |
0 |
3 |
0 |
4
|
Tổng cộng |
11/12 |
36 |
15 |
7 |
14 |
47 |
48
|
Giải đấu giao hữu khác[sửa|sửa mã nguồn]
- Cúp Albena:
- Cúp Algarve:
- Vô địch (5): 1994, 1996, 1997, 1998, 2019
Huấn luyện viên[sửa|sửa mã nguồn]
Đội hình hiện tại[sửa|sửa mã nguồn]
Dưới đây là đội hình được triệu tập tham gia World Cup nữ 2019 .
Số liệu thống kê tính đến ngày 27 tháng 6 năm 2019, sau trận gặp Anh.
Triệu tập gần đây[sửa|sửa mã nguồn]
Các nữ cầu thủ dưới đây được triệu tập trong vòng 12 tháng .
Chơi nhiều trận nhất[sửa|sửa mã nguồn]
- Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
#
|
Tên cầu thủ
|
Thời gian thi đấu
|
Số trận
|
1
|
Riise, Hege
|
1990–2004
|
188
|
2
|
Gulbrandsen, Solveig
|
1998–2015
|
183
|
3
|
Nordby, Bente
|
1991–2007
|
172
|
4
|
Rønning, Trine
|
1999–2016
|
162
|
5
|
Medalen, Linda
|
1987–1999
|
152
|
6
|
Støre, Heidi
|
1980–1997
|
151
|
7
|
Stensland, Ingvild
|
2003–2016
|
144
|
8
|
Mjelde, Maren
|
2007–
|
142
|
9
|
Hjelmseth, Ingrid
|
2003–
|
138
|
10
|
Lehn, Unni
|
1996–2007
|
133
|
- *Tính đến ngày 27 tháng 6 năm 2019.[8]
|
Ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa|sửa mã nguồn]
- Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu ở đội tuyển quốc gia.
#
|
Tên cầu thủ
|
Thời gian thi đấu
|
Bàn thắng
|
Số trận
|
Hiệu suất
|
1
|
Pettersen, Marianne
|
1994–2003
|
66
|
98
|
0.67
|
2
|
Medalen, Linda
|
1987–1999
|
64
|
152
|
0.42
|
3
|
Herlovsen, Isabell
|
2005–
|
62
|
132
|
0.45
|
4
|
Aarønes, Ann Kristin
|
1990–1999
|
60
|
111
|
0.54
|
5
|
Riise, Hege
|
1990–2004
|
58
|
188
|
0.31
|
6
|
Gulbrandsen, Solveig
|
1998–2015
|
55
|
184
|
0.30
|
7
|
Mellgren, Dagny
|
1999–2005
|
49
|
95
|
0.52
|
8
|
Hegerberg, Ada
|
2011–2017
|
38
|
66
|
0.63
|
9
|
Gulbrandsen, Ragnhild
|
1997–2007
|
30
|
80
|
0.38
|
10
|
Lehn, Unni
|
1996–2007
|
24
|
134
|
0.18
|
|
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]