Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp (Super League Hy Lạp) (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Σούπερ Λιγκ 1) hay còn gọi là Super League 1 Interwetten vì lý do tài trợ, là hạng đấu bóng đá chuyên nghiệp cao nhất ở Hy Lạp. Giải đấu được thành lập vào ngày 16 tháng 7 năm 2006 và thay thế Alpha Ethniki để đứng đầu hệ thống giải bóng đá Hy Lạp. Giải bao gồm 14 đội và diễn ra từ tháng 8 đến tháng 5 với 26 vòng đấu và 10 trận play-off để tìm ra đội vô địch.
Tính đến tháng 11 năm 2021, Giải bóng đá vô địch vương quốc Hy Lạp được xếp hạng 19 [ 2 ] trong bảng xếp hạng những giải đấu của UEFA, dựa trên thành tích của những đội bóng Hy Lạp tại những giải đấu châu Âu trong 5 năm qua .Kể từ khi giải vô địch toàn Hy Lạp chính thức tiên phong được xây dựng vào năm 1927, [ 3 ] chỉ có sáu câu lạc bộ giành được chức vô địch. Đương kim vô địch của giải đấu là Olympiacos, có trụ sở tại Piraeus .
Từ năm 1905 đến năm 1912, một giải vô địch toàn Hy Lạp được tổ chức bởi Hiệp hội điền kinh nghiệp dư Hy Lạp (SEGAS). Giải vô địch này thực chất là một giải đấu địa phương giữa các câu lạc bộ đến từ Athens và Piraeus.
Sau Chiến tranh Balkan và Chiến tranh quốc tế thứ nhất, hai hiệp hội bóng đá được xây dựng, một xây dựng giải bóng đá ở Athens, Piraeus và một xây dựng giải đấu tựa như ở Thes salonikii bởi Thương Hội những câu lạc bộ bóng đá Athens-Piraeus ( EPSAP ) và Thương Hội những câu lạc bộ bóng đá Macedonia ( EPSM ). Năm 1923, chức vô địch toàn Hy Lạp được xác lập bằng trận đấu play-off giữa đội vô địch giải Athens-Piraeus và đội vô địch giải Thes saloniki. Peiraikos Syndesmos đã giành thắng lợi 3 – 1 trước Aris. Trận chung kết này đã không được tổ chức triển khai vào năm sau đó vì EPSAP được chia thành Thương Hội những câu lạc bộ bóng đá Athens ( EPSA ) và HIệp hội những câu lạc bộ bóng đá Piraeus ( EPSP ) sau một cuộc tranh chấp .
Giải vô địch toàn Hy Lạp[sửa|sửa mã nguồn]
Vào ngày 14 tháng 11 năm 1926, Liên đoàn bóng đá Hy Lạp được xây dựng và tổ chức triển khai Giải vô địch toàn Hy Lạp tiên phong trong tiến trình 1927 – 28. Tuy nhiên, Olympiacos, Panathinaikos và AEK Athens đã không tham gia do xích míc với EPO. [ 4 ]Các trận đấu khởi đầu được tổ chức triển khai với những đội đến từ Athens, Piraeus, Thes saloniki và không gồm có những đội bóng cấp tỉnh. Trước đây, những giải vô địch cấp thành phố đã được tổ chức triển khai và ở quá trình cuối, nhiều lúc chỉ có đội đứng đầu vượt qua vòng sơ loại, đôi lúc là hai hoặc ba đội đứng đầu. Trong mùa 1938 – 39 được tổ chức triển khai ở hai bảng đấu, những đội bên ngoài Athens-Thessaloniki là Doxa Drama, AEK Kavala và Filippi Kavala lần tiên phong tham gia. Sự Open lần đầu của những đội cấp tỉnh trong một bảng đấu duy nhất của Giải vô địch toàn Hy Lạp diễn ra vào mùa giải 1953 – 54 với sự tham gia của Panachaiki từ miền nam Hy Lạp và Niki Volou từ miền trung và bắc Hy Lạp .
Hạng A Quốc gia[sửa|sửa mã nguồn]
Năm 1959, Alpha Ethniki – tiền thân của giải Super League hiện tại – được thành lập với thể thức thi đấu vòng tròn trên toàn quốc. Sau nhiều tháng đàm phán, mùa giải 1959–60 là lần đầu tiên giải đấu được tổ chức trên toàn quốc. Giải bắt đầu khởi tranh vào Chủ nhật, ngày 25 tháng 10 năm 1959 với sự tham gia của 16 đội. Việc tạo ra một giải vô địch duy nhất trên cả nước thay vì chọn các đội tham dự thông qua các giải đấu địa phương là yêu cầu của cả Nhà nước và UEFA. Mong muốn ban đầu là tổ chức các trận đấu cố định vào Chủ nhật hàng tuần ở Hy Lạp nhằm kích thích sự quan tâm đến PRO-PO, trong khi đó UEFA lại muốn việc lựa chọn các đội vô địch quốc gia với các tiêu chí nghiêm ngặt và thông qua các trận đấu diễn ra trên cả nước. Liên đoàn bóng đá Hy Lạp (HFF) có nghĩa vụ phải tiến hành bãi bỏ các giải đấu của Hiệp hội các câu lạc bộ bóng đá Hy Lạp (EPS) cũng như các vòng loại của Giải vô địch toàn Hy Lạp. Hạng đấu cao nhất sẽ là Alpha Ethniki, giải đấu duy nhất với các câu lạc bộ từ khắp lãnh thổ Hy Lạp, số lượng các đội sẽ tham dự giải đấu sẽ được cố định ngoại trừ các trường hợp xuống hạng vào cuối mỗi mùa giải. Ban đầu, số đội từ 10 của Giải vô địch toàn Hy Lạp mùa giải 1958–59 sẽ được mở rộng lên thành 18 đội, lịch thi đấu sẽ diễn ra hầu hết tất cả các ngày có thể trong năm, các đội sẽ không còn tham gia vào các giải đấu địa phương thuộc EPS. Đó sẽ chỉ còn là vòng loại cho giải vô địch quốc gia sắp tới và không còn là vòng chung kết của giải vô địch hiện tại nên tầm quan trọng của chúng đã bị giảm đi đáng kể. Vào thứ Bảy ngày 10 tháng 10 năm 1959 tại Đại hội đồng HFF, với sự tham gia của tất cả các thành viên thuộc Hiệp hội các Hiệp hội Bóng đá và Tổng thư ký Thể thao (GGA) cùng đại diện của chính phủ Karamanlis đã tuyên bố thành lập giải vô địch quốc gia đầu tiên của bóng đá Hy Lạp. Trận đấu đầu tiên được diễn ra trong 15 ngày tới. Theo đại hội đồng HFF vào ngày 29 tháng 8 năm 1959, Alpha Ethniki sẽ có 18 đội và sẽ quyết tâm thực hiện phù hợp với các vị trí của các gải EPS tại địa phương trong giai đoạn 1958–59. HFF vào thứ bảy ngày 10 tháng 10 tại Đại hội đồng đã quyết định giảm số đội xuống còn 16 để giải đấu sẽ không bị kéo dài vào mùa hè. Sau khi kết thúc mùa giải đầu tiên vào mùa hè năm 1960, số đội bóng dự giải không tăng lên bất chấp ý định ban đầu của HFF và con số 16 được coi là lý tưởng cho giải vô địch tại Hy Lạp. Giải đấu tăng số đội lên thành 18 một lần duy nhất vào năm 1967.
Các đội tham gia mùa giải tiên phong của Alpha Ethniki là :
- Bốn đội dẫn đầu của Giải vô địch Hiệp hội các câu lạc bộ bóng đá Athens: Panathinaikos, Panionios, AEK Athens và Apollon Smyrnis.
- Bốn đội đứng đầu của Giải vô địch Hiệp hội các câu lạc bộ bóng đá Piraeus: Olympiacos, Ethnikos Piraeus, AE Nikaia và Proodeftiki.
- Bốn đội dẫn đầu của Giải vô địch Hiệp hội các câu lạc bộ bóng đá Macedonia (Thessaloniki): Aris, PAOK, Apollon Kalamarias và Iraklis.
- Hai đội đứng đầu bảng Bắc của Giải vô địch khu vực: Doxa Drama và Megas Alexandros Katerini.
- Đứng đầu hai bảng Giải vô địch khu vực phía Nam: Pankorinthiakos và Panegialios.
Vào ngày 25 tháng 10 năm 1959, mùa giải Alpha Ethniki tiên phong đã diễn ra. Panathinaikos đã giành chức vô địch Alpha Ethniki tiên phong, trở thành nhà vô địch Hy Lạp lần thứ tư trong lịch sử dân tộc. Họ ghi được 79 điểm khi đã vượt mặt AEK Athens 2 – 1 trong trận đấu mà chỉ cần một tác dụng hòa tại sân hoạt động Karaiskakis. Hệ thống tính điểm là 3 điểm cho một trận thắng thắng, 2 điểm cho một trận hòa, 1 điểm cho một trận thua .
Những năm tiếp theo[sửa|sửa mã nguồn]
Qua thời hạn, một số ít đội bóng tham gia mùa giải Alpha Ethniki tiên phong đã có nhiều dịch chuyển. Ethnikos Piraeus, đội đoạt cúp Hy Lạp năm 1933 cùng Proodeftiki xuống tham gia Gamma Ethniki ( hạng ba ) trong khi AE Nikaia phải tham gia giải vô địch cấp địa phương Piraeus. Apollon Kalamaria, Doxa Drama và Iraklis xuống chơi tại Beta Ethniki ( hạng hai ), trong khi đó Pankorinthiakos sau một vài năm chơi tại Alpha Ethniki đã hợp nhất với Aris Korinthos để xây dựng PAS Korinthos, thăng hạng lên Alpha Ethniki vào những năm thập niên 90 và hiện đang tham gia Gamma Ethniki. Megas Alexandros Katerini là đội tiền thân của Pierikos. Năm 1961, họ hợp nhất với Olympos Katerini thành Pierikos và tham gia Gamma Ethniki .Vào ngày 19 tháng 1 năm 1979, một dự luật đã được trải qua tại Quốc hội Hy Lạp. Theo đó những câu lạc bộ bóng đá trở thành tập đoàn lớn bóng đá ( PAE hoặc ΠΑΕ trong tiếng Hy Lạp ). Hiệp hội những tập đoàn lớn bóng đá ( EPAE, ΕΠΑΕ trong tiếng Hy Lạp ) dưới sự giám sát của HFF sẽ chịu nghĩa vụ và trách nhiệm tổ chức triển khai giải vô địch với Makis Ithakisios được bầu làm quản trị tiên phong. Ban đầu, CP thuộc chiếm hữu của liên đoàn thể thao mà câu lạc bộ bóng đá thường trực. Tuy nhiên, ngay sau đó, những người kinh doanh nổi tiếng của Hy Lạp ( chủ tàu, trùm dầu mỏ, chủ ngân hàng nhà nước, v.v. ) khởi đầu mua lại những PAE mới xây dựng bằng cách mua phần nhiều CP của họ, và sau đó tăng vốn CP của họ, do đó biến bóng đá Hy Lạp thành một ngành kinh doanh thương mại hóa trọn vẹn và có doanh thu cao trong nhiều thập kỷ tiếp theo .
Vào ngày 16 tháng 7 năm 2006, công ti Super League được thành lập. Các thành viên của công ti là các PAE có quyền tham gia giải vô địch bóng đá chuyên nghiệp hạng Nhất. Hoạt động chính của hiệp hội là tổ chức và tiến hành Giải hạng Nhất theo quy định và quyết định của Liên đoàn bóng đá Hy Lạp (HFF) và các liên đoàn bóng đá quốc tế cấp cao hơn (UEFA, FIFA).
Thể thức tranh tài[sửa|sửa mã nguồn]
Hiện tại, có 14 câu lạc bộ tham gia Super League, mỗi đội tranh tài với nhau theo thể thức sân nhà sân khách với tổng số 26 trận. Vào cuối mùa giải, 6 câu lạc bộ đứng đầu bảng xếp hạng sẽ tranh tài với nhau trong một vòng đấu lê dài 10 trận để quyết định hành động đội vô địch Super League cũng như những đội tham gia UEFA Champions League và UEFA Europa Conference League .8 câu lạc bộ cuối bảng cạnh tranh đối đầu với nhau trong loạt trận play-out để quyết định hành động đội xuống hạng Super League 2. [ 5 ] Trong khi đó, hai đội đứng đầu Super League 2 được thăng hạng. Số lượng đội xuống hạng hoàn toàn có thể đổi khác, tùy thuộc vào thủ tục cấp phép diễn ra vào cuối mùa giải .Super League hiện chỉ có một suất tham gia UEFA Champions League. Đội vô dịch sẽ tham gia vòng sơ loại tiên phong. Ba suất UEFA Europa Conference League thuộc về những đội xếp thứ 2, 3 và đội vô địch Cúp vương quốc Hy Lạp .
Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]
14 câu lạc bộ dưới đây sẽ tranh tài tại Super League 1 trong mùa giải 2021 – 22 .
Đội vô địch[sửa|sửa mã nguồn]
Tên của giải vô địch qua những năm[sửa|sửa mã nguồn]
- 1905–06 đến 1926–27 : Giải vô địch Hiệp hội thể thao nghiệp dư (SEGAS) và Giải vô địch HIệp hội các câu lạc bộ bóng đá Hy Lạp (không dược tính theo HFF )
- 1927–28 đến 1958–59 : Giải vô địch toàn Hy Lạp HFF
- 1959–60 đến 2005–06 : Alpha Ethniki
- 2006–07 đến nay: Super League Hy Lạp
Chức vô địch SEGAS và FCA[sửa|sửa mã nguồn]
Giải vô địch Hy Lạp[sửa|sửa mã nguồn]
Thành tích những câu lạc bộ ( 1927 – )[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ
|
Số lần vô địch
|
Năm vô địch
|
Tham khảo
|
Olympiacos
|
46
|
1931, 1933, 1934, 1936, 1937, 1938, 1947, 1948, 1951, 1954, 1955, 1956, 1957, 1958, 1959, 1966, 1967, 1973, 1974, 1975, 1980, 1981, 1982, 1983, 1987, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2020, 2021, 2021
|
[8][9][10]
|
Panathinaikos
|
20
|
1930, 1949, 1953, 1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1969, 1970, 1972, 1977, 1984, 1986, 1990, 1991, 1995, 1996, 2004, 2010
|
[8][11][12]
|
AEK
|
12
|
1939, 1940, 1963, 1968, 1971, 1978, 1979, 1989, 1992, 1993, 1994, 2018
|
[8][13]
|
Aris
|
3
|
1928, 1932, 1946
|
[8]
|
PAOK
|
3
|
1976, 1985, 2019
|
[8]
|
AEL
|
1
|
1988
|
[8]
|
Thành tích những câu lạc bộ ( 1959 – )[sửa|sửa mã nguồn]
* Mùa giải 1959–60 đánh dấu mùa đầu tiên của Alpha Ethniki – tiền thân của giải Super League hiện tại với thể thức thi đấu vòng tròn trên toàn quốc.
Câu lạc bộ
|
Số lần vô địch
|
Năm vô địch
|
Tham khảo
|
Olympiacos
|
31
|
1966, 1967, 1973, 1974, 1975, 1980, 1981, 1982, 1983, 1987, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2020, 2021
|
[8][9][10]
|
Panathinaikos
|
17
|
1960, 1961, 1962, 1964, 1965, 1969, 1970, 1972, 1977, 1984, 1986, 1990, 1991, 1995, 1996, 2004, 2010
|
[8][11][12]
|
AEK
|
10
|
1963, 1968, 1971, 1978, 1979, 1989, 1992, 1993, 1994, 2018
|
[8][13]
|
PAOK
|
3
|
1976, 1985, 2019
|
[8]
|
AEL
|
1
|
1988
|
[8]
|
Thành tích theo thành phố ( 1927 – )[sửa|sửa mã nguồn]
Sáu câu lạc bộ đã giành chức vô địch đến từ bốn thành phố :
Thành phố
|
Danh hiệu
|
Câu lạc bộ
|
Piraeus
|
46
|
Olympiacos (46)
|
Athens
|
32
|
Panathinaikos (20), AEK Athens (12)
|
Thessaloniki
|
6
|
PAOK (3), Aris (3)
|
Larissa
|
1
|
AEL (1)
|
Thành tích theo khu vực ( 1927 – )[sửa|sửa mã nguồn]
Sáu câu lạc bộ đã giành chức vô địch đến từ ba khu vực :
Khu vực
|
Danh hiệu
|
Câu lạc bộ
|
Attica
|
78
|
Olympiacos (46), Panathinaikos (20), AEK Athens (12)
|
Trung Makedonia
|
6
|
PAOK (3), Aris (3)
|
Thessaly
|
1
|
AEL (1)
|
Số liệu thống kê[sửa|sửa mã nguồn]
Xếp hạng số lần lọt vào top 3 ( 1959 – nay )[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ
|
Nhất
|
Nhì
|
Ba
|
Tổng
|
Olympiacos
|
31
|
15
|
9
|
55
|
Panathinaikos
|
17
|
19
|
14
|
50
|
AEK Athens
|
10
|
16
|
18
|
44
|
PAOK
|
3
|
8
|
9
|
20
|
AEL
|
1
|
1
|
–
|
2
|
Aris
|
–
|
1
|
5
|
6
|
OFI
|
–
|
1
|
2
|
3
|
Panionios
|
–
|
1
|
1
|
2
|
Apollon Smyrni
|
–
|
–
|
1
|
1
|
Asteras Tripoli
|
–
|
–
|
1
|
1
|
Atromitos
|
–
|
–
|
1
|
1
|
Iraklis
|
–
|
–
|
1
|
1
|
Số mùa giải tranh tài trong Alpha Ethniki và Super League[sửa|sửa mã nguồn]
Số mùa giải mà mỗi đội (theo thứ tự bảng chữ cái) đã chơi ở hạng đấu cao nhất từ 1959–60 đến 2021–22. Có tổng cộng 69 đội đã thi đấu ít nhất một mùa giải tại giải hạng nhất. Olympiacos, Panathinaikos và PAOK là ba đội duy nhất đã chơi ở hạng đấu cao nhất trong mọi mùa giải kể từ khi giải đấu bắt đầu theo thể thức mới. Các đội in đậm Super League 2021–22 .
Số mùa
|
Câu lạc bộ
|
63
|
Olympiacos, Panathinaikos, PAOK
|
61
|
AEK Athens
|
59
|
Panionios
|
57
|
Aris Thessaloniki
|
53
|
Iraklis
|
44
|
OFI
|
42
|
Apollon Smyrnis
|
36
|
Ethnikos Piraeus
|
31
|
Xanthi, AEL
|
26
|
Panachaiki, PAS Giannina
|
24
|
Panserraikos
|
23
|
Egaleo
|
21
|
Doxa Drama, Atromitos
|
20
|
Apollon Pontus
|
19
|
Kavala
|
18
|
Levadiakos
|
17
|
Veria, Ionikos
|
16
|
Pierikos
|
15
|
Proodeftiki, Asteras Tripolis
|
12
|
Panetolikos
|
10
|
Kastoria
|
9
|
Athinaikos, Ergotelis, Olympiacos Volos
|
7
|
Fostiras, Kalamata, Paniliakos, Trikala
|
6
|
Niki Volos, Panegialios, Panthrakikos, Platanias
|
5
|
Edessaikos, Korinthos, AO Kerkyra, Lamia
|
4
|
Akratitos, Ethnikos Asteras, Kallithea, Rodos, Vyzas Megara
|
3
|
Diagoras, Olympiakos Nicosia, Panelefsiniakos, AEL Kalloni, AOK Kerkyra, Volos
|
2
|
Chalkidona
|
1
|
AEL Limassol, AE Nikaia, APOEL*, Atromitos Piraeus, Chalkida, EPA Larnaca, Makedonikos, Megas Alexandros Katerini, Naoussa, Olympiacos Chalkida, Omonia Nicosia, Pankorinthiakos, Thermaikos, Thrasyvoulos
|
- APOEL đã tránh được việc phải xuống hạng trong mùa giải 1973–74 nhưng bị buộc phải tham dự Hạng Nhất Síp vào mùa giải tiếp theo do Thổ Nhĩ Kỳ xâm lược Síp. Do đó, họ là đội duy nhất chỉ chơi một mùa giải tại giải VĐQG Hy Lạp và không bị xuống hạng.
Bảng xếp hạng tổng ( từ 1959 – 60 )[sửa|sửa mã nguồn]
Đây là bảng tổng kết điểm số, kết quả các trận đấu và bàn thắng của mọi đội đã tham dự Alpha Ethniki và Super League kể từ mùa giải 1959–60. Số liệu được tính đến hết mùa giải 2020–21. Một trận thắng được 3 điểm, hòa được 1 điểm, thua được 0 điểm và không có loại trừ nào.
Hạng
|
Đội
|
Mùa
|
Điểm
|
Số trận
|
Thắng
|
Hòa
|
Thua
|
B.T.
|
B.B.
|
H.S.
|
1
|
2
|
3
|
Mùa đầu
|
Từ/Mùa cuối
|
Tốt nhất
|
1
|
Olympiacos
|
62
|
4307
|
1960
|
1305
|
397
|
258
|
4001
|
1443
|
2558
|
31
|
15
|
9
|
1959–60
|
1959–60
|
1
|
2
|
Panathinaikos
|
62
|
4023
|
1960
|
1206
|
438
|
317
|
3693
|
1541
|
2152
|
17
|
19
|
14
|
1959–60
|
1959–60
|
1
|
3
|
AEK Athens
|
60
|
3738
|
1894
|
1106
|
442
|
346
|
3475
|
1647
|
1828
|
10
|
17
|
19
|
1959–60
|
2015–16
|
1
|
4
|
PAOK
|
62
|
3398
|
1961
|
971
|
506
|
484
|
3041
|
1912
|
1129
|
3
|
8
|
9
|
1959–60
|
1959–60
|
1
|
5
|
Aris
|
56
|
2617
|
1781
|
712
|
496
|
573
|
2204
|
1946
|
258
|
–
|
1
|
5
|
1959–60
|
2018–19
|
2
|
6
|
Panionios
|
59
|
2411
|
1870
|
642
|
493
|
735
|
2202
|
2364
|
−162
|
–
|
2
|
1
|
1959–60
|
2019–20
|
2
|
7
|
Iraklis
|
53
|
2401
|
1686
|
623
|
469
|
594
|
2099
|
2011
|
88
|
–
|
–
|
1
|
1959–60
|
2015–16
|
3
|
8
|
OFI
|
44
|
1807
|
1377
|
507
|
315
|
555
|
1714
|
1820
|
−106
|
–
|
1
|
2
|
1968–69
|
2018–19
|
2
|
9
|
Apollon Smyrnis
|
42
|
1524
|
1326
|
393
|
351
|
582
|
1402
|
1745
|
−343
|
–
|
–
|
1
|
1959–60
|
2020–21
|
3
|
10
|
Ethnikos Piraeus
|
36
|
1394
|
1164
|
356
|
326
|
482
|
1305
|
1552
|
−247
|
–
|
–
|
–
|
1959–60
|
1998–99
|
4
|
Theo khu vực địa lý[sửa|sửa mã nguồn]
Tất cả những khu vực địa lý của Hy Lạp đều có sự góp mặt của tối thiểu một câu lạc bộ ở giải vô địch vương quốc. Miền Trung Hy Lạp có 26 câu lạc bộ, trong đó 21 câu lạc bộ đến từ Attica. Trung Hy Lạp, Makedonia và Peloponnese có gần 3/4 những câu lạc bộ đã tham gia hạng đấu cao nhất. Từ năm 1967 đến 1974, đội vô địch Síp cũng tham gia giải Hy Lạp và đã có tổng số năm câu lạc bộ Síp khác nhau đã tham gia trong những năm đó. Các hòn đảo Rhodes, Lesbos và Corfu của Hy Lạp cũng đã có đại diện thay mặt. Tổng cộng có 73 câu lạc bộ đã tham gia ở Lever tiên phong cho đến nay .
Vua phá lưới và cầu thủ có số trận nhiều nhất[sửa|sửa mã nguồn]
Số trận nhiều nhất
Hạng
|
Tên
|
Số trận
|
Đội
|
1
|
Mimis Domazos
|
536
|
Panathinaikos, AEK Athens
|
2
|
Nikos Nioplias
|
509
|
OFI, Panathinaikos, Chalkidona
|
3
|
Giorgos Koudas
|
504
|
PAOK
|
4
|
Thomas Mavros
|
501
|
Panionios, AEK Athens
|
5
|
Savvas Kofidis
|
493
|
Iraklis, Olympiacos, Aris
|
6
|
Mimis Papaioannou
|
480
|
AEK Athens
|
Stathis Chaitas
|
480
|
Panionios, AEL
|
8
|
Giorgos Skartados
|
478
|
Rodos, PAOK, Iraklis, Olympiacos
|
9
|
Georgios Georgiadis
|
476
|
Doxa Drama, Panathinaikos, PAOK, Olympiacos, Iraklis
|
10
|
Dinos Kouis
|
473
|
Aris
|
11
|
Tasos Mitropoulos
|
458
|
Ethnikos Piraeus, Olympiacos, AEK Athens, Apollon Smyrnis, Iraklis, Veria
|
12
|
Elias Yfantis
|
457
|
Olympiacos
|
13
|
Takis Nikoloudis
|
453
|
Iraklis, AEK Athens, Olympiacos, Apollon Pontus
|
14
|
Angelos Kremmydas
|
448
|
Ethnikos Piraeus, Panachaiki
|
15
|
Stelios Manolas
|
447
|
AEK Athens
|
16
|
Dimitris Saravakos
|
443
|
Panionios, Panathinaikos, AEK Athens
|
17
|
Theodoros Pahatouridis
|
434
|
Chính kịch Doxa, Olympiacos, Ionikos
|
18
|
Giorgos Dedes
|
429
|
Panionios, AEK Athens
|
19
|
Giannis Gounaris
|
426
|
PAOK, Olympiacos
|
20
|
Michalis Kritikopoulos
|
422
|
Panegialios, Ethnikos Piraeus, Olympiacos, Apollon Smyrnis
|
Cầu thủ ngoại
|
1
|
Krzysztof Warzycha
|
390
|
Panathinaikos
|
2
|
Predrag Đorđević
|
375
|
Paniliakos, Olympiacos
|
3
|
Toni Savevski
|
357
|
AEK Athens
|
4
|
Daniel Batista
|
316
|
Ethnikos Piraeus, Olympiacos, AEK Athens, Aris
|
5
|
Noni Lima
|
291
|
Panionios
|
Nhiều bàn thắng nhất
Hạng
|
Tên
|
Bàn
|
Đội
|
1
|
Thomas Mavros
|
260
|
AEK Athens, Panionios
|
2
|
Krzysztof Warzycha
|
244
|
Panathinaikos
|
3
|
Mimis Papaioannou
|
234
|
AEK Athens
|
4
|
Giorgos Sideris
|
224
|
Olympiacos
|
5
|
Antonis Antoniadis
|
187
|
Panathinaikos, Olympiacos
|
6
|
Alexandros Alexandris
|
186
|
Veria, AEK Athens, Olympiacos, AEL, Kallithea
|
7
|
Dimitris Saravakos
|
186
|
Panionios, Panathinaikos, AEK Athens
|
8
|
Giorgos Dedes
|
181
|
Panionios, AEK Athens
|
9
|
Nikos Anastopoulos
|
179
|
Panionios, Olympiacos, Ionikos
|
10
|
Michalis Kritikopoulos
|
175
|
Panegialios, Ethnikos Piraeus, Olympiacos
|
11
|
Nikos Lyberopoulos
|
167
|
Kalamata, Panathinaikos, AEK Athens
|
12
|
Demis Nikolaidis
|
163
|
Apollon Smyrnis, AEK Athens
|
13
|
Dinos Kouis
|
142
|
Aris
|
14
|
Kostas Nestoridis
|
140
|
AEK Athens
|
15
|
Mimis Domazos
|
139
|
Panathinaikos, AEK Athens
|
16
|
Georgios Georgiadis
|
137
|
Doxa Drama, Panathinaikos, PAOK, Olympiacos, Iraklis
|
17
|
Stavros Sarafis
|
136
|
PAOK
|
Dimitris Salpingidis
|
136
|
PAOK, Panathinaikos
|
19
|
Giorgos Koudas
|
134
|
PAOK
|
Số sao vàng[sửa|sửa mã nguồn]
Dựa trên ý tưởng của Umberto Agnelli, danh hiệu Golden Star for Sports Excellence đã được ra mắt để công nhận các đội đã giành được nhiều chức vô địch hoặc các danh hiệu khác bằng cách hiển thị các ngôi sao vàng trên biểu trưng và áo đấu của đội.
Số ngôi sao chính thức được trao cho các đội Super League hiện tại là:[cần dẫn nguồn]
Các câu lạc bộ bóng đá Hy Lạp tại những giải đấu châu Âu[sửa|sửa mã nguồn]
Cúp C1 châu Âu / UEFA Champions League[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ
|
Vô địch
|
Á quân
|
Bán kết
|
Tứ kết
|
Panathinaikos
|
–
|
1971
|
1985, 1996
|
1992, 2002
|
AEK Athens
|
–
|
–
|
–
|
1969
|
Olympiacos
|
–
|
–
|
–
|
1999
|
UEFA Cup / Europa League[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ
|
Vô địch
|
Á quân
|
Bán kết
|
Tứ kết
|
AEK Athens
|
–
|
–
|
1977
|
–
|
Panathinaikos
|
–
|
–
|
–
|
1988, 2003
|
UEFA Cup Winners ‘ Cup[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ
|
Vô địch
|
Chung kết
|
Bán kết
|
Tứ kết
|
AEK Athens
|
–
|
–
|
–
|
1997, 1998
|
PAOK
|
–
|
–
|
–
|
1974
|
AEL
|
–
|
–
|
–
|
1985
|
Olympiacos
|
–
|
–
|
–
|
1993
|
Panionios
|
–
|
–
|
–
|
1999
|
Xếp hạng UEFA[sửa|sửa mã nguồn]
Bảng xếp hạng vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 30 tháng 5 năm 2021, Giải VĐQG Hy Lạp đứng thứ 20 trong cơ sở tài liệu thông số UEFA với 26.000 điểm .
Bảng xếp hạng câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]
- Tính đến 24 tháng 2 năm 2022
Hạng
|
Câu lạc bộ
|
Điểm
|
37
|
Olympiacos
|
41.000
|
72
|
PAOK
|
21.000
|
81
|
AEK Athens
|
20.000
|
224
|
Aris Thessaloniki
|
5.440
|
227
|
OFI
|
5.440
|
228
|
Atromitos
|
5.440
|
231
|
Asteras Tripolis
|
5.440
|
233
|
Panathinaikos
|
5.440
|
234
|
Panionios
|
5.440
|
Bản quyền phát sóng[sửa|sửa mã nguồn]
Nova Sports ( kênh hạng sang ) đã có bản quyền phát sóng những trận đấu trên sân nhà của sáu đội thuộc Super League. Các đội là Aris, Asteras Tripolis, Atromitos, Olympiacos, PAOK và PAS Giannina. Cosmote Sport ( cũng là một kênh hạng sang ) đã có bản quyền phát sóng những trận đấu trên sân nhà của tám đội thuộc Super League. Các đội là AEK Athens, Apollon Smyrnis, Ionikos, Lamia, OFI, Panathinaikos, Panetolikos và Volos .Eurosport có bản quyền phát sóng toàn châu Âu cho Super League ( ngoại trừ Hy Lạp và Bồ Đào Nha ) .
Nhà hỗ trợ vốn[sửa|sửa mã nguồn]
Từ năm 2007 đến năm 2017, Super League bán tên công ty OPAP. Từ năm 2017 đến năm 2019, Super League bán tên cho công ty Souroti .
Thỏa thuận của OPAP với Super League đã hết hạn vào cuối mùa giải 2016–17. Super League đã thông báo vào ngày 20 tháng 7 năm 2017 rằng hợp đồng tài trợ danh hiệu mới cho Super League là với công ty Souroti.
Cũng như hỗ trợ vốn cho chính giải đấu, Super League có 1 số ít đối tác chiến lược và nhà sản xuất chính thức. Nhà phân phối bóng chính thức cho giải đấu là Molten có hợp đồng từ mùa giải 2019 – 20 sửa chữa thay thế cho Adidas. Ngoài ra, Panini đã có giấy phép sản xuất những vật dụng sưu tầm cho Super League kể từ năm 2008 ( ngoại trừ mùa giải 2018 – 19 ), gồm có nhãn dán và thẻ bài sưu tập .
Giai đoạn
|
Nhà tài trợ
|
Tên
|
2007–2017
|
OPAP
|
OPAP Super League
|
2017–2019
|
Souroti
|
Super League Souroti
|
2020–
|
Interwetten
|
Super League Interwetten
|
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]