Tiếng Hà Lan hay tiếng Hòa Lan ( (trợ giúp·thông tin)) là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Tây của Nhóm ngôn ngữ German, được nói hàng ngày như tiếng mẹ đẻ bởi khoảng 23 triệu người tại Liên minh châu Âu — chủ yếu sống ở Hà Lan và Bỉ — và là ngôn ngữ thứ hai của 5 triệu người.[1][2][4][5]
Ngoài hai quốc gia thuộc Vùng đất Thấp, đây là bản ngữ của đa số người dân Suriname, cũng như vị thế chính thức tại những nước vùng Caribe là Aruba, Curaçao và Sint Maarten. Các nhóm thiểu số có rủi ro tiềm ẩn bị biến mất vẫn còn xuất hiện tại Pháp, [ 6 ] Đức, và ở Indonesia, [ n 1 ] trong khi khoảng chừng nửa triệu người bản ngữ định cư tại Hoa Kỳ, Canada và Úc. [ n 2 ] Các phương ngữ Hà Lan ở Cape Town thuộc miền nam châu Phi đã biến hóa thành tiếng Afrikaans, một ngôn từ kế tục được hiểu chung [ n 3 ] được khoảng chừng 16 triệu người dùng, đa phần ở Nam Phi và Namibia. [ n 4 ]
Tiếng Hà Lan là một trong những ngôn ngữ gần gũi với tiếng Đức và tiếng Anh[n 5] và được coi là hòa trộn giữa hai ngôn ngữ này.[n 6] Tiếng Hà Lan, như tiếng Anh, không chịu ảnh hưởng của sự chuyển đổi phụ âm tiếng Đức cao, không sử dụng dấu umlaut với chức năng ngữ pháp, bỏ đi phần lớn việc dùng thức giả định, và đã cân bằng nhiều phần hình thái ngôn ngữ, trong đó có hệ thống cách.[n 7] Những đặc trưng giống như tiếng Đức gồm có sự tồn tại ba giống ngữ pháp — mặc dù ít quan trọng về ngữ pháp[n 8] — cũng như việc sử dụng phân từ hình thức (modal particle),[7] sự vô thanh hóa âm tiết cuối, và thứ tự từ tương tự nhau.[n 9] Từ vựng tiếng Hà Lan thuộc hệ German là chính và tiếp nhận nhiều từ mượn Rôman hơn tiếng Đức nhưng ít hơn tiếng Anh.[n 10]
Tên gọi “Hà Lan” (荷蘭) hay “Hòa Lan” (和蘭) trong tiếng Việt bắt nguồn từ việc dịch phiên âm tiếng Hán của từ “Holland”. Từ này thường được nhiều ngôn ngữ khác dùng để chỉ phần đất Hà Lan tại châu Âu nhưng thực chất đây là tên của một vùng của quốc gia này.
Trong tiếng Anh từ Dutch thường để chỉ toàn bộ ngôn ngữ, tức là tính cả các phương ngữ. Các biến thể ở Bỉ đôi khi còn được gọi là Flemish. Ở cả Bỉ và Hà Lan, tên chính thức cho ngôn ngữ này là Nederlands, còn các phương ngữ có tên riêng như: Hollands “tiếng Holland”, West-Vlaams “tiếng Flemish Tây”, Brabants “tiếng Brabant”.[8] Tuy vậy việc dùng từ Vlaams (“tiếng Flemish”) để miêu tả tiếng Hà Lan chuẩn đối với các biến thể tại Flanders lại hết sức phổ biến tại hai quốc gia này.[9]
Người ta biết tới ngôn ngữ Hà Lan thông qua nhiều cái tên khác nhau. Ở thời kỳ Trung Cổ, dietsc được sử ở khu vực Flanders và Brabant, trong khi diets hoặc duutsc được sử dụng ở miền bắc Hà Lan.[10] Những từ này hình thành từ từ theudisk của tiếng Giécman Cổ, một trong những cái tên đầu tiên được sử dụng cho các ngôn ngữ không phải Rôman ở Tây Âu. Nghĩa đen của nó là “ngôn ngữ của dân thường”, tức là ngôn ngữ German địa phương. Thuật ngữ này đối lập với tiếng Latinh, thứ ngôn ngữ phi địa phương được dùng trong văn viết và Nhà thờ Kitô giáo.[11] Trong văn bản đầu tiên có sự hiện diện của từ này, có niên đại từ năm 784, nó chỉ các thổ ngữ German của đảo Anh.[12] Nó xuất hiện trong Lời thề Strasbourg (842) với tên teudisca để chỉ phần tiếng German của lời tuyên thệ.
Cho tới khoảng thế kỷ 16, những người nói các biến thể của nhóm ngôn ngữ German Tây từ cửa sông Rhine tới dãy Alps dần quen với việc dùng từ Dietsch, (Neder)duyts hay một vài từ cùng gốc của từ theudisk để ám chỉ ngôn ngữ địa phương họ. Điều này dẫn tới sự lúng túng không tránh khỏi một khi các thuật ngữ tương tự nhau lại dùng để chỉ các ngôn ngữ khác nhau. Do vậy một cách phan biệt đã ra đời. Nhờ cạnh thương mại và thuộc địa của người Hà Lan vào thế kỷ 16 và 17, thuật ngữ dutch của tiếng Anh bắt đầu dùng để chỉ riêng tiếng Hà Lan. Ngoại lệ đáng chú ý là tiếng Đức Pennsylvania hay còn có tên gọi trong tiếng Anh là Pennsylvania Dutch, một biến thể tiếng Đức miền Trung Tây được người sử dụng nó gọi là Deitsch. Ngược lại tiếng Hà Lan Jersey được dùng cho tới tận những năm 1950 ở New Jersey lại là một ngôn ngữ creole có nguồn gốc Hà Lan.
Ngay trong tiếng Hà Lan, từ Diets đã không còn hay được dùng nữa – mặc dù từ Platdiets vẫn được dành cho các phương ngữ chuyển tiếp Limburg-Ripuaria ở dông bắc Bỉ. Nederlands, từ chính thức trong tiếng Hà Lan dành cho ngôn ngữ này, phải mãi tới thế kỷ 19 mới được công nhận hoàn toàn. Cách đạt tên này đã được dùng từ trước vào cuối thế kỷ 15, nhưng vì nhiều lý do phải cạnh tranh với thuật ngữ thông dụng hơn là Nederduits “tiếng Hà Lan đê địa”. Một trong số các lý do là để phân biệt với Hoogduits, “tiếng Hà Lan cao địa”, tức là ngôn ngữ được nói ở Đức. Từ Hoog sau này bị lược bỏ chỉ còn Duits, ngày nay để chỉ tiếng Đức. Tuy nhiên từ Nederduits lại gây bối rối bởi các ngôn ngữ địa phương miền bắc nước Đức cũng được gọi là Niederdeutsch, và thế là từ Duits trong tên gọi bị lược bỏ, mở đường để Nederlands trở thành cái tên chính thức để chỉ tiếng Hà Lan. Người ta dùng từ Neder (nghĩa là “thấp”) để chỉ tiếng Hà Lan là bởi vì địa thế xuôi dòng của Hà Lan trong vùng đồng bằng Rhine–Meuse–Scheldt gần Biển Bắc, gợi cho người ta liên tưởng về vùng đất La Mã trước đây mang tên Hạ Germania.[13][14][15]
Ban đầu ba phương ngữ German được nói tại Vùng đất thấp : Frisia ở miền bắc và dọc bờ biển phía tây ; Saxon ở miền đông ( lân cận khu vực Hạ Đức ) ; và Franken ở miền trung và nam. Phương ngữ Franken được coi là tiếng Hà Lan cổ, sau đó tăng trưởng thành tiếng Hà Lan Trung Cổ và sau là tiếng Hà Lan văn minh. Sự phân loại những quy trình tiến độ này chỉ mang tính ước lệ bởi sự chuyển giao giữa chúng là rất chậm. Các nhà ngôn ngữ học chỉ hoàn toàn có thể phát hiện ra phần nào của một cuộc cách mạng khi ngôn từ Hà Lan chuẩn Open và được công nhận .
Trong cây ngôn từ Ấn-Âu, tiếng Hà Lan thuộc nhóm những ngôn từ German, nghĩa là cùng nguồn gốc với những ngôn từ như tiếng Anh, Đức, và những ngôn từ Scandinavia. Tất cả những ngôn từ German tuân theo quy tắc quy đổi âm của định luật Grimm và định luật Verner có nguồn gốc từ ngôn từ German nguyên thủy, điều giúp phân biệt nhóm ngôn từ này với những nhóm ngôn từ Ấn-Âu khác. Điều này được cho là khởi đầu vào thời đại đồ sắt Tiền La Mã ở Bắc Âu, khoảng chừng giữa thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. [ 16 ]Các ngôn từ German thường được phân thành ba nhóm : Đông ( thời nay không còn sống sót ), Tây, và Bắc German. [ 17 ] Dù phải trải qua những đột biến của Giai đoạn Di cư, những người thuộc nhóm ngôn từ này vẫn hoàn toàn có thể hiểu người thộc nhóm ngôn từ kia. Tiếng Hà Lan thuộc nhánh phía Tây cùng tiếng Anh, Scots, những ngôn từ Frisia, tiếng Hạ Đức và những ngôn từ những ngôn từ Đức cao địa ( gồm có tiếng Đức chuẩn, Yiddish, Luxembourg và nhiều thổ ngữ khác ). Nó mang đặc thù của những nâng cấp cải tiến về mặt âm vị học và hình vị học mà không có trong nhánh Bắc và Đông. [ 18 ] Các biến thể Tây German vào thời này được phân ra làm ba nhóm phương ngữ : Ingvaeon ( German biển Bắc ), Istvaeon ( German Weser-Rhine ) và Irminon ( German Elbe ). Người ta cho rằng những bộ lạc Frank thuộc nhóm phương ngữ Istvaeon với tác động ảnh hưởng nhất định từ Ingvaeon ở phía tây-bắc, điều vẫn còn hiện hữu trong tiếng Hà Lan tân tiến .
Ngôn ngữ Frank là một ngôn ngữ không có quá nhiều chứng cứ chứng thực. Ngoại lệ đáng chú ý là các chữ viết Bergakker được tìm thấy ở thành phố Tiel của Hà Lan. Các chữ viết này này có thể nằm trong một bản ghi tiếng Frank thể kỷ thứ 5. Mặc dù một số tên địa danh được ghi trong các văn bản tiếng Latinh như vadam (tiếng Hà Lan hiện đại: wad, tiếng Việt: “bãi bùn do triều xuống”), có thể được xem là những từ đơn tiếng “Hà Lan”, các chữ viết Bergakker mới là chứng cứ về hình thái tiếng Hà Lan. Tuy nhiên người ta vẫn chưa thống nhất cách dịch phần còn lại của bản chữ viết này.[19]
Người Frank xuất hiện ở miền nam Hà Lan (người Frank Salia) và miền trung nước Đức (người Frank Ripuaria), rồi sau đó di cư xuống Gaul. Tên của vương quốc của họ (Francia) nằm trong tên của Pháp (France), quốc gia có nguồn gốc từ phần phía tây của vương quốc. Mặc dù cai trị những người Gallo-Roman trong gần 300 năm, ngôn ngữ của họ vẫn biến mất tại Pháp và Đức vào khoảng thế kỷ thứ 7. Tại Pháp nó bị thay thế bởi tiếng Pháp Cổ (một ngôn ngữ Roman với ảnh hưởng đáng kể của tiếng Frank cổ), và tại Đức là tiếng Alemanni.
Tuy nhiên, tiếng Franconia hay Franken Cổ không biến mất trọn vẹn, bởi nó vẫn liên tục được dùng tại Vùng đất thấp, và sau đó biến hóa thành ngôn từ thời nay mà người ta gọi là tiếng Hạ Franconia Cổ hay tiếng Hà Lan Cổ .
Tiếng Hà Lan Cổ[sửa|sửa mã nguồn]
Những nơi người ta nói tiếng Hà Lan CổTiếng Hạ Franconia Cổ hay tiếng Hà Lan Cổ được coi là quy trình tiến độ chính trong sự hình thành cũng như tăng trưởng của một thứ ngôn từ Hà Lan riêng không liên quan gì đến nhau. Từ ” Hạ ” hay ” Thấp ” trong từ Tiếng Hạ Franconia là để chỉ những vương quốc tại Vùng đất thấp, nơi tiếng Frank không bị ảnh hưởng tác động bởi sự quy đổi phụ âm tiếng Đức Cao địa, để phân biệt với tiếng Franconia Trung và Cao ở Đức .Tiếng Franconia Cao sau đó cùng với tiếng Alemanni và Bayern đổi khác thành tiếng Đức Cao Cổ. Cũng trong khoảng chừng thời hạn này quy luật phụ âm xát hẹp mũi Ingvaeon dẫn tới sự tăng trưởng của tiếng Saxon Cổ, tiếng Frisia Cổ và tiếng Anh cổ ( Anglo-Saxon ). Vì phần đông không bị tác động ảnh hưởng bởi những sự tăng trưởng kia, tiếng Hà Lan Cổ giữ quan hệ mật thiết với ngôn từ nguyên thủy của người Frank, dân tộc bản địa về sau làm chủ châu Âu trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên ngôn từ này vẫn phải trải qua những tiến triển của riêng nó như sự vô thanh hóa âm tiết cuối. Thực tế vật tìm thấy tại Bergakker chỉ ra ngôn từ này hoàn toàn có thể đã trải qua sự quy đổi này trong thời kỳ tiếng Frank Cổ .
Forsachistu diobolae…Lời thề rửa tội Utrecht
Bằng chứng về các câu viết bằng tiếng Hà Lan Cổ là cực kỳ hiếm. Bản ghi cổ nhất được tìm thấy trong bộ luật Lex Salia, văn bản của người Frank được viết khoảng năm 510 này, với câu văn sau được ghi nhận là câu tiếng Hà Lan cổ xưa nhất: Maltho thi afrio lito (Ta nói với ngươi, ta trao tự do cho ngươi, kẻ đầy tớ) được dùng để thả tự do cho nô lệ.
Một trong những câu cổ xưa khác là Visc flot aftar themo uuatare (Một con cá đang bơi dưới nước). Một văn bản tiếng Hà Lan cổ xưa còn được bảo tồn là Lời thề rửa tội Utrecht (776-800) bắt đầu với câu Forsachistu diobolae […] ec forsacho diabolae (Con có chịu từ bỏ quỷ dữ không? […] Con xin từ bỏ quỷ dữ). Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất là Hebban olla vogala nestas hagunnan, hinase hic enda tu, wat unbidan we nu (Mọi loài chim đều đã bắt đầu làm tổ, trừ tôi và bạn, chúng ta còn chờ gì nữa), được cho là ra đời vào năm 1100, và viết bởi một tu sĩ người Flemish tại tu viện ở Rochester, Anh.
Tiếng Hà Lan Trung cổ[sửa|sửa mã nguồn]
Tiếng Hà Lan Cổ biến đổi một cách tự nhiên thành tiếng Hà Lan Trung cổ. Năm 1150 thường được nhắc tới như là khoảng thời gian gián đoạn, nhưng nó thực chất đánh dấu thời kì văn viết tiếng Hà Lan nở rộ và hình thành nên nền văn học Hà Lan Trung đại. Thời kì này chưa hề có một thứ ngôn ngữ chuẩn mực thực sự quan trọng; tiếng Hà Lan Trung cổ thực ra vẫn là cái tên đại diện cho nhiều phương ngữ gần gũi nhau có nguồn gốc từ tiếng Hà Lan cổ. Trong thực tế, do tiếng Hà Lan là một thứ tiếng khá bảo thủ (tức là không thay đổi nhiều theo thời gian), các tác phẩm văn học thời kì này vẫn dễ hiểu đối với người ngày nay.
Điểm khác biệt đáng lưu ý của tiếng Cổ và Trung Cổ là sự tiêu giảm nguyên âm. Các nguyên âm tròn ở các âm tiết cuối của từ khá phổ biến trong tiếng Hà Lan cổ; trong khi đó ở tiếng Hà Lan Trung Cổ, các nguyên âm đó trở thành âm schwa (âm giống như âm ơ trong tiếng Việt).
Các khu vực phương ngữ tiếng Hà Lan Trung Cổ tác động ảnh hưởng nhiều bởi ranh giới chính trị. Tầm tác động ảnh hưởng chính trị của 1 số ít người quản lý thường tạo ra tầm ảnh hưởng tác động về mặt ngôn ngữ học khi ngôn từ trong mỗi vùng trở nên thuần nhất hơn. Có thể phân loại như sau theo độ quan trọng :
- Tiếng Flemish trong Bá quốc Flanders. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ trong thời Trung Cổ (được gọi là cuộc “xâm lăng Flemish”) nhưng mất ưu thế vào tay tiếng Brabant vào thế kỷ 13.
- Tiếng Brabant, được dùng chủ yếu tại Công quốc Brabant và các khu vực lân cận. Đây là ngôn ngữ chiếm ưu thế trong gần như suốt thời Trung Cổ, được gọi là “cuộc xâm lăng Brabant”.
- Tiếng Holland, với Bá quốc Holland là trung tâm, là nơi tiếng Frisia Cổ được sử dụng. Nó ít có ảnh hưởng trong thời Trung cổ nhưng có tầm ảnh hưởng mạnh hơn vào thế kỷ 16 trong cuộc “xâm lăng Holland”; Chiến tranh Tám mươi Năm diễn ra ở miền Nam Hà Lan trong thời kỳ này.
- Tiếng Limburg, ngày nay được dùng tại các tỉnh Limburg của Hà Lan và Bỉ, và các vùng đất lân cận tại Đức. Qua thời gian nó dần liên kết với các khu vực chính trị khác nhau và do đó trở thành phương ngữ phân kỳ nhất trong số này. Nó còn bị ảnh hưởng một phần từ sự chuyển đổi phụ âm Đức cao địa và là ngôn ngữ ít thân thiết nhất với ngôn ngữ chuẩn sau này. Tuy nhiên đây là phương ngữ Hà Lan Trung Cổ đầu tiên phát triển được truyền thống văn chương.
Sách tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]