Người tinh khôn (danh pháp hai phần: Homo sapiens) là loài người hiện nay trên Trái Đất. Tên có nguồn gốc từ tiếng Latin là “homo” (nghĩa là người) và sapien (nghĩa là tinh khôn, thông minh).[3][4][5][6]
Đây là loài duy nhất còn tồn tại trong chi Homo (chi người) thuộc họ Người, còn những loài người khác cùng chi này như: người khéo léo (Homo habilis), người đứng thẳng (Homo erectus), người lùn (Homo floresiensis), người Heidelberg (Homo heidelbergensis), người Neanderthal (Homo neanderthalensis) và có thể còn nhiều loài khác chưa phát hiện đã tuyệt chủng. Trong loài này còn có người Homo sapiens idaltu cũng đã tuyệt chủng, còn loài người hiện đại có tên đầy đủ là “Người hiện đại về giải phẫu” hay Homo sapiens sapiens.
Người ranh mãnh có đặc trưng là trí tuệ tăng trưởng với thể tích bộ não có tỉ lệ so với thể tích khung hình là lớn nhất giới động vật hoang dã, [ 7 ] dáng đứng thẳng trọn vẹn, hai chi sau ( chân ) đảm nhiệm luân chuyển, hai chi trước trở thành tay là cơ quan lao động và sản xuất công cụ lao động. Sự mưu trí, năng lực thích ứng của người tinh ranh đã khiến loài này có ảnh hưởng tác động lớn nhất trên Trái Đất ; họ đang được coi là loài ít được chăm sóc nhất trên Sách đỏ về các loài bị rình rập đe dọa của sự Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế. [ 1 ]
Tên và phân loại[sửa|sửa mã nguồn]
Danh pháp hai phần Homo sapiens được Carl Linnaeus đặt ra năm 1758.[8] Danh từ Latin homō (thuộc cách hominis) có nghĩa là “người đàn ông, con người”.
H. sapiens bao gồm Homo sapiens idaltu, một phân loài cổ của H. sapiens. Quần thể người còn sinh tồn đã được chia thành các phân loài về phương diện lịch sử, nhưng kể từ thập niên 1980 mọi nhóm còn tồn tại có xu hướng được xếp trong một phân loài duy nhất, H. sapiens sapiens. Lịch sử về các phân loài được tuyên bố hay đề xuất của H. sapiens là phức tạp và đầy mâu thuẫn. Phân loài duy nhất được công nhận rộng khắp là H. sapiens idaltu (1993). Tên gọi H. s. sapiens là do Carl Linnaeus đặt năm 1758, theo định nghĩa để nói tới phân loài mà chính bản thân Linnaeus là mẫu vật điển hình. Tuy nhiên, Linnaeus cũng công nhận 4 phân loài còn sinh tồn khác là H. s. afer, H. s. americanus, H. s. asiaticus và H. s. ferus để chỉ người châu Phi, người châu Mỹ, người châu Á và chủng Mã Lai.[2] Phân loại này vẫn được sử dụng phổ biến tới giữa thế kỷ 20, đôi khi được thêm cả H. s. tasmanianus để chỉ thổ dân Australia.[9]
Một số nguồn cho thấy người Neanderthal (Homo neanderthalensis) là một phân loài (Homo sapiens neanderthalensis).[10][11] Tương tự như vậy, các mẫu vật phát hiện được của Homo rhodesiensis đã được một vài tác giả phân loại thành một phân loài (Homo sapiens rhodesiensis), mặc dù vẫn phổ biến khi coi hai loài đề cập trên đây là những loài riêng biệt trong chi Homo hơn là các phân loài trong H. sapiens.[12]
H. sapiens từ Homo trước đó. Trục ngang đại diện cho vị trí địa lý; trục dọc đại diện cho thời gian hàng triệu năm trước. Khu vực màu xanh dương biểu thị sự hiện diện của một loài nhất định trong thời gian và địa điểm đó. Loài người hiện đại thời kỳ đầu di chuyển từ châu Phi qua những khu vực khác nhau trên thế giới và giao phối lai ghép với các con cháu của Homo heidelbergensis, cụ thể là người Neanderthal, Denisova, và các dạng người châu Phi cổ xưa không rõ (trên cùng bên phải).[13]
Biểu đồ sự Open củatừtrước đó. Trục ngang đại diện thay mặt cho vị trí địa lý ; trục dọc đại diện thay mặt cho thời hạn hàng triệu năm trước. Khu vực màu xanh dương biểu lộ sự hiện hữu của một loài nhất định trong thời hạn và khu vực đó. Loài người tân tiến thời kỳ đầu chuyển dời từ châu Phi qua những khu vực khác nhau trên quốc tế và giao phối lai ghép với các con cháu của, đơn cử là người Neanderthal, Denisova, và các dạng người châu Phi cổ xưa không rõ ( trên cùng bên phải ) .
Theo truyền thống, có hai quan điểm cạnh tranh nhau trong cổ nhân loại học về nguồn gốc của H. sapiens: thuyết nguồn gốc châu Phi gần đây và thuyết nguồn gốc đa khu vực.
Từ năm 2010, nghiên cứu gen đã dẫn đến sự xuất hiện của một vị trí trung gian, có đặc trưng chủ yếu của thuyết nguồn gốc châu Phi gần đây cộng thêm hỗn hợp với con người cổ xưa có giới hạn.
Nguồn gốc châu Phi gần đây của người hiện đại là học thuyết chính thống mô tả nguồn gốc và lan tỏa ban đầu của giải phẫu người hiện đại. Lý thuyết được gọi là mẫu Rời khỏi châu Phi (gần đây) trên truyền thông phổ biến, và một cách hàn lâm, là mẫu giả thuyết một nguồn gốc gần đây (recent single-origin hypothesis – RSOH), giả thuyết thay thế (Replacement Hypothesis), và Nguồn gốc châu Phi gần đây (Recent African Origin – RAO). Học thuyết cho rằng con người có nguồn gốc duy nhất (monogenesis) đã được xuất bản trong tác phẩm Nguồn gốc loài Người của Charles Darwin năm 1871. Khái niệm này là suy đoán cho đến những năm 1980, khi nó đã được chứng thực bởi một nghiên cứu DNA ti thể ngày nay, kết hợp với các bằng chứng dựa trên nhân chủng học sinh học của các mẫu vật cổ xưa. Theo di truyền học và bằng chứng hóa thạch, người Homo sapiens cổ xưa tiến hóa thành người hiện đại chỉ duy nhất ở châu Phi, trong khoảng 200.000 đến 100.000 năm trước, với các thành viên của một nhánh rời châu Phi 60.000 năm trước và qua thời gian thay thế những loài người trước đó như người Neanderthal và người đứng thẳng. Gần đây hơn, vào năm 2017, các hóa thạch tìm thấy ở Jebel Irhoud (Maroc) đã gợi ra rằng Homo sapiens có thể đã tiến hóa sớm tới 300.000 năm trước,[14] và bằng chứng khác cũng gợi ra rằng Homo sapiens có lẽ đã di cư từ châu Phi sớm tới 270.000 năm trước.[15][16]
Nguồn gốc duy nhất gần đây của loài người tân tiến ở Đông Phi có vị trí gần như đồng thuận trong cộng đồng khoa học. [ 17 ] [ 18 ] [ 19 ] [ 20 ] [ 21 ] Tuy nhiên, trình tự bộ gen rất đầy đủ của người Neanderthal gần đây đã ám chỉ rằng người Neanderthal và 1 số ít nhóm người tân tiến có cùng một dòng dõi gen cổ đại .
Các tác giả của nghiên cứu cho rằng các phát hiện của họ phù hợp với sự pha trộn của người Neanderthal lên đến 4% trong một số quần thể. Nhưng những nghiên cứu cũng cho thấy rằng có thể có những lý do khác tại sao người hiện đại và người Neanderthal lại chia sẻ cùng dòng dõi di truyền cổ đại.[22] Tháng 8 năm 2012, một nghiên cứu của các nhà khoa học tại Đại học Cambridge đã đặt câu hỏi về kết luận này, giả định rằng thay vào đó, DNA trùng là một phần còn lại của một tổ tiên chung của cả người Neanderthal và người hiện đại. Tuy nhiên, nghiên cứu đó không giải thích tại sao chỉ có một phần của người hiện đại có DNA của người Neanderthal.[23][24]
Học thuyết nguồn gốc đa khu vực cung cấp một lời giải thích cho các mô hình tiến hóa của loài người, được đề xuất bởi Darien H. Wolpoff[25] năm 1988[26] Nguồn gốc đa khu vực cho rằng sự tiến hóa của loài người từ đầu thế Pleistocen, khoảng 2,5 triệu năm trước cho đến ngày nay là thuộc về một loài người duy nhất và liên tục, tiến hóa trên khắp thế giới thành người Homo sapiens sapiens.
Khung thời gian cho sự tiến hóa của chi Homo từ tổ tiên chung cuối cùng là người vượn khoảng 10 đến 2 triệu năm trước, còn của H. sapiens từ người đứng thẳng là khoảng 1,8 đến 0,2 triệu năm trước.
Nghiên cứu khoa học về sự tiến hóa của con người đề cập đến chủ yếu là sự phát triển của chi Homo (loài người còn sinh tồn và đã tuyệt chủng), nhưng thường liên quan đến việc nghiên cứu những loài khác thuộc họ Người; bao gồm cả vượn người phương Nam, một tổ tiên quan trọng của con người, và những họ hàng hiện tại đồng thời đã tuyệt chủng của chúng ta trong phân họ Homininae: tinh tinh, tinh tinh lùn, khỉ đột, và các loài có liên quan thuộc tông người (Hominin) đã tuyệt chủng.
“Người hiện đại” được xác định là loài Homo sapiens, trong đó phân loài duy nhất còn tồn tại được gọi là Homo sapiens sapiens.
Homo sapiens idaltu, phân loài còn lại được biết đến, hiện tại đã tuyệt chủng.[27] Homo neanderthalensis, loài tuyệt chủng 30.000 năm trước, đôi khi cũng được phân loại là một phân loài, “Homo sapiens neanderthalensis“; các nghiên cứu về di truyền hiện đang cho rằng những DNA chức năng của người hiện đại và người Neanderthal đã khác nhau từ 500.000 năm trước.[28]
Tương tự, những mẫu vật phát hiện được của loài Homo rhodesiensis đã được một vài tác giả phân loại là một phân loài, nhưng sự phân loại này không được chấp nhận rộng rãi.
Người hiện đại về mặt giải phẫu lần đầu xuất hiện trong các hóa thạch tại châu Phi khoảng 195.000 năm trước (xem di cốt Omo), và các nghiên cứu về sinh học phân tử đã cho thấy các bằng chứng rằng thời gian xấp xỉ của sự chia tách (về DNA) từ chung một tổ tiên của tất cả loài người là 200.000 năm trước.[29][30][31][32][33] Những nghiên cứu rộng rãi về sự đa dạng hóa gen của châu Phi đã tìm thấy người San ǂKhomani có sự đa dạng hóa gen nhiều nhất trong số 113 mẫu dân cư khác nhau, khiến họ trở thành một trong 14 “cụm dân cư cổ đại”. Nghiên cứu cũng đồng thời định vị khởi nguồn của cuộc di cư của loài người hiện đại là ở phía Tây nam châu Phi, gần vùng duyên hải biên giới giữa Namibia và Angola.[34][35]
Chọn lọc tự nhiên đã liên tục tiếp nối ra với loài người, với những dẫn chứng cho thấy 1 số ít vùng hệ gen nhất định đã cho thấy sự tinh lọc có hướng trong 15.000 năm qua. [ 36 ]
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]