|
Bản làng nơi cô gái Việt sinh sống ở Bhutan. (Nguồn: Dân trí) |
Chị Nguyễn Thị Diễm ( 42 tuổi, quê Thành Phố Hà Nội ) từng gắn bó với Bhutan – đất nước được ca tụng là ” hạnh phúc nhất thế giới “.
Xây nhà miễn phí, không làm chỗ đỗ xe
Sống ở bản làng nằm trên ngọn núi cao hơn 4000 m, chị Diễm được mở mang vô vàn điều mê hoặc xen lẫn lạ kỳ. Từ chuyện đỗ xe, xây nhà đến chăn gia súc, chế biến sữa, …
Chẳng hạn, theo chị Diễm, người trong làng dù có ô-tô cũng không xây ga-ra. Họ đỗ xe bất cứ đâu như thể chỗ nào cũng là sân nhà mà chẳng sợ mất trộm.
Thậm chí, cả việc xây nhà cũng gần như không lấy phí khi thứ duy nhất người dân phải mua từ chợ là tấm lợp tôn. Họ được phép sử dụng nguồn nguyên vật liệu sẵn có trong tự nhiên để làm nhà tại, gồm đá trên núi, gỗ óc chó trong rừng và đất sét trắng ( cao lanh ) đào ở ven suối.
|
Những ngôi nhà truyền thống có tuổi đời trăm năm với phần tường sắp xếp kỳ công từ các lớp đá rất dày và cũ. (Nguồn: Dân trí) |
Tuy nhiên, có những lao lý họ cần tuân thủ, ví dụ khi chặt 1 cây sẽ phải trồng 2 cây con thay thế sửa chữa vào vị trí đó. Đội kiểm lâm địa phương sẽ kiểm tra và xác nhận xem cây con có đạt năng lực sống khỏe hay không. Từ khâu chuẩn bị sẵn sàng vật tư đến cách kiến thiết xây dựng nhà ở của người dân Bhutan đều đặc biệt quan trọng. Họ phải làm tường dày 70 – 80 cm, sàn gỗ nguyên khối dày 20 cm mới hoàn toàn có thể chống được cái lạnh thấu xương. Riêng mái nhà làm từ gỗ xẻ ghép lại, trên cùng đóng một lớp tôn để giúp tuyết trôi xuống vào ngày tuyết rơi. Ngay cả phong cách thiết kế cổng nhà khiến nhiều hành khách thấy lạ nhưng lại mang đậm nét văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn của người Bhutan. Muốn vào nhà, họ phải leo bậc thang gỗ 2 mặt, cao vượt tường với phần mái cổng được trang trí hoa văn sặc sỡ. Nếu như ở nhiều nơi khác, phòng khách được ví như ” bộ mặt ” ngôi nhà thì so với người Bhutan, gian nhà bếp chính là linh hồn của khoảng trống sống. Đây cũng là nơi diễn ra những hoạt động giải trí hoạt động và sinh hoạt chung của cả mái ấm gia đình.
|
Nhà chính trong bản của gia đình chị Diễm. (Nguồn: Dân trí) |
Di cư theo mùa… cùng gia súc
Ở nơi cao nhất thế giới với dân số nhã nhặn, gia súc cũng không nhiều, người du mục nơi đây coi trâu bò như những người bạn thân thiện. Họ nuôi chúng chỉ để lấy sữa, tuyệt nhiên không sát sinh. Khi trâu bò già tự chết thì để qua một ngày đêm mới lấy thịt và triển khai 1 số ít nghi lễ truyền thống lịch sử. Từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa cỏ, chị Diễm cùng mái ấm gia đình lại lùa gia súc lên vùng thảo nguyên thoáng mát, cao hơn 4500 m. Trâu bò có nguồn thức ăn dồi dào, lại được sử dụng nguồn nước tự nhiên sạch tới cả đủ tiêu chuẩn đóng chai nên sản sinh nguồn sữa chất lượng nhất. ” Bò và Yak mùa này nhiều sữa, vắt tay mệt nghỉ. Tôi chưa khi nào thấy sữa ở đâu sánh đặc thơm ngon như vậy. Chúng tôi chỉ lấy sữa khi bò con đã biết ăn cỏ và không khi nào lấy sữa cả ngày, vẫn để cách bữa cho bò con bú mẹ. Sữa được làm thành bơ và phô-mai, thu mua tận nơi. Thu nhập từ 1 con bò sữa trong 6 tháng mùa cỏ đạt khoảng chừng 40 USD / ngày “, cô gái Việt san sẻ.
|
Những lúc rảnh rỗi, cha chị Diễm thường hái rau, nấm về phơi khô. (Nguồn: Dân trí) |
Trên thảo nguyên xanh tươi có rất nhiều nấm tự nhiên và rau rừng, bốn phía bạt ngàn hoa tự nhiên rực rỡ tỏa nắng và thơm ngát. Riêng tháng 6 – 7 còn có Đông Trùng Hạ Thảo, nhất là loại mắt đỏ nổi tiếng nhất thế giới chỉ có ở Bhutan. Người dân không khi nào thu hoạch hết mà luôn để lại một chút ít làm hạt giống cho mùa sau. Đến tháng 10, khi cỏ úa vàng bởi sương giá, dân làng lại chuyển dời cùng đàn trâu bò xuống núi. Trước khi rời đi, họ tranh thủ rắc 1 số ít hạt giống xuống nền đất tơi xốp. Tuyết sẽ phủ kín suốt mùa đông. Tháng 4 tuyết tan, hạt sẽ tự lên mầm, đâm chồi xanh tươi, đón người dân quay trở lại vào tháng 5.
Không chia ranh giới, nhà cách nhà… cả tiếng đi bộ, “gia tài” là bơ và phô mai
Giống như bao người du mục nơi đây, ngoài nhà chính trong bản, mái ấm gia đình chị Diễm còn có hai căn nhà phụ trên thảo nguyên. Đây là nơi họ di cư đàn trâu bò trong 6 tháng mùa Đông.
|
Ngôi nhà nằm ở khu vực thảo nguyên rừng thấp khoảng 2500m, có tuổi đời hàng trăm năm. (Nguồn: Dân trí) |
Gọi là nhà nhưng chẳng có hàng rào để phân loại ranh giới địa phận … vì đất quá rộng. Người dân lưu lại ” biên giới ” giữa những nhà bằng tảng đá, gốc cây, … Với người du mục nơi đây, rừng không riêng gì cung ứng nguồn thức ăn mùa tuyết cho gia súc mà còn là ” ngôi nhà thứ hai “. Bởi vậy, họ luôn cố gắng nỗ lực trồng thêm thật nhiều cây cối trên địa phận đất của mái ấm gia đình mình. Kết thúc mùa di cư, trước khi lên núi, họ chặt tỉa cành để lá non sinh sôi nảy nở, sẵn sàng chuẩn bị cho mùa trở lại năm sau.
|
Cô gái Việt chưa bao giờ đi hết “vườn nhà”. Từ chỗ đậu ô-tô, chị phải đi bộ 3 giờ mới tới, đồ đạc thì vắt lên lưng ngựa, đựng trong giỏ mây. (Nguồn: Dân trí) |
Dù ở thảo nguyên, nhà cách nhà cả một khu rừng nhưng bố chị Diễm vẫn thường hẹn hò uống trà ( sữa nấu với trà đen ) với hàng xóm. Họ phải khoác phích trà đi bộ 1 giờ rưỡi, đến bãi cỏ dưới gốc cây to 4 người ôm không xuể chỗ ngã tư biên giới giữa những nhà để gặp được nhau. Tình cảm gắn bó xuyên ” biên giới “, không khoảng cách nào ngăn nổi giữa những người dân nơi đây khiến cô gái Việt càng thêm thán phục. Cuộc sống của người du mục rất đỗi đơn giản và giản dị nên trong nhà đồ vật khá đơn sơ, đa phần là những đồ vật để vắt sữa, làm bơ, chế biến phô mai. Ngoài ra còn có một kho củi thông bách già chứa tinh dầu rất thơm.
|
Lương thực tích trữ trong các túi được khâu từ da trâu bò già chết. (Nguồn: Dân trí) |
Những lần ghé nhà trong rừng, chị Diễm luôn ấn tượng và yêu dấu nhất ” điểm nhấn nội thất bên trong ” là khu vực nhà bếp lửa. Nó được ví như trái tim của ngôi nhà, vừa là chỗ nấu nướng, uống trà, ăn cơm, vừa là nơi chuyện trò sum vầy hoặc nghỉ ngơi nếu muốn. ” Buổi sáng chúng tôi thức dậy, việc tiên phong là thổi bùng nhà bếp lửa, uống một bát trà Sujar nóng thơm lừng kèm Tsampa hoặc cốm gạo rang. Sujar là một loại trà trên núi rất thơm, giàu canxi, có vị hơi mặn, khi nấu xong bỏ thêm chút bơ.
|
Bơ thành phẩm từ sữa, có độ béo ngậy, sánh mịn. (Nguồn: Dân trí) |
Uống trà xong thì đi lấy sữa, rồi về nhà bếp ăn bữa sáng với cốc sữa tươi ngon. Sau đó chúng tôi cùng thao tác ngay tại gian nhà bếp này. Các việc làm cũng rất tuyệt vời, chẳng có gì phải lo nghĩ stress tất bật nên tâm hồn luôn an nhàn “, chị kể. Những ngày tháng theo mái ấm gia đình chồng chăn nuôi trâu bò, cô gái Việt cũng được ” mục sở thị ” quy trình chế biến thành phẩm từ sữa, tạo ra sự món ăn thức uống thơm ngon ” trứ danh ” ở Bhutan.
Sau khi thu hoạch, sữa được giữ “nghỉ” trong vài giờ rồi cho chạy qua máy thủ công, tách riêng phần sữa vàng béo để làm bơ và phần sữa trắng để làm phô-mai. Sau đó cất bơ và phô-mai vào kho và kiểm tra độ lên men của phô-mai đang chín: phô-mai tươi, phô-mai hun khói (trên gác bếp), phô-mai thối…
Đặc biệt, người Bhutan không thao tác suốt cả ngày, chỉ kiếm tiền đủ sống. Thời gian rảnh còn lại, họ dành để tận thưởng những niềm vui khác như uống trà, thiền định, tụng kinh niệm Phật hoặc đi hái rau, nhặt hạt óc chó. Lâu lâu mới đi chợ. Hàng tuần có người vào thu mua bơ, phô-mai, họ sẽ mua giúp những thứ từ thị xã.
|
Trà sữa – thức uống quen thuộc mỗi ngày của người Bhutan. (Nguồn: Dân trí) |
Một thập kỷ sống cách quê nhà cả chục ngàn cây số, được thưởng thức những điều lạ lẫm xen lẫn mê hoặc, cô gái Việt càng cảm nhận được giá trị thực sự của hạnh phúc. Nó không đến từ những điều kiện kèm theo vật chất bên ngoài mà đến từ tâm hồn thanh thản an vui bên trong. Và dù có bao nhiêu tiền tài, vật chất cũng không thể nào mua được hạnh phúc, sự tự do tự tại của ý thức.