Trường cao đẳng cộng đồng – Wikipedia tiếng Việt

Trường đại học cộng đồng hay trường cao đẳng cộng đồng (tiếng Anh: community college) là một loại hình cơ sở giáo dục. Thuật ngữ tiếng Anh community college có thể có nghĩa khác nhau ở những quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam, trường đại học cộng đồng hay trường cao đẳng cộng đồng thuộc hệ thống các cơ sở giáo dục đại học.

Joliet Junior College ở Joliet, Illinois là trường ĐH cộng đồng tiên phong ở Hoa Kỳ, xây dựng năm 1901. Năm 2012, trường có 15.589 sinh viên .

Ở Hoa Kỳ, trường đại học cộng đồng (community college, đôi khi còn gọi là junior college, technical college, two-year college, hay city college) chủ yếu là các cơ sở giáo dục đại học công lập hệ hai năm cung cấp giáo dục đại học và những năm đầu của giáo dục sau trung học, cấp các chứng chỉ (certificates), diploma, bằng associate (bằng “cao đẳng”). Nhiều trường đại học cộng đồng còn có chương trình giáo dục suốt đời và giáo dục cho người lớn tuổi. Sau khi tốt nghiệp từ một trường đại học cộng đồng, một số sinh viên chuyển tiếp lên học ở các viện đại học hay các trường đại học khai phóng hệ bốn năm thêm từ hai đến ba năm nữa để lấy bằng cử nhân (bachelor’s degree).

Trước thập niên 1970, các trường đại học cộng đồng ở Hoa Kỳ thường được gọi là junior college. Tên gọi này vẫn còn được sử dụng ở một số cơ sở giáo dục. Tuy nhiên, theo thời gian thuật ngữ junior college được dùng để chỉ các cơ sở giáo dục tư thục hệ hai năm, còn community college thì được dùng để chỉ các cơ sở công lập hệ hai năm. Tên gọi community college xuất hiện từ thực tế là các trường này chủ yếu thu hút và chấp nhận sinh viên từ cộng đồng địa phương, và thường được cấp kinh phí lấy từ nguồn thu thuế ở địa phương.

Nhiều trường ĐH cộng đồng ở Hoa Kỳ tăng trưởng lên thành những trường ĐH cộng đồng tổng lực ( comprehensive community colleges ). Những trường này có những chương trình sau :

  1. Giáo dục chuyển tiếp (transfer education): Những sinh viên học hai năm ở đây sẽ chuyển sang học tiếp ở các cơ sở giáo dục hệ bốn năm để lấy bằng cử nhân.[1]
  2. Giáo dục nghề (career education): Sinh viên tốt nghiệp với bằng associate và ra trường làm việc ngay.
  3. Giáo dục bổ túc (developmental): Dành cho những học sinh trung học chưa sẵn sàng vào học đại học.
  4. Giáo dục suốt đời (continuing): Gồm những khóa học không lấy tín chỉ dành cho những ai quan tâm và muốn trau dồi kiến thức.
  5. Đào tạo nhân lực cho các ngành nghề (industry training): Chương trình giáo dục và đào tạo được các công ty địa phương “đặt hàng” để đào tạo nhân viên.
  6. Giáo dục trực tuyến (e-learning): Những khóa học từ xa qua máy tính.

Hiện nay, Hoa Kỳ có tổng thể 1.132 trường ĐH cộng đồng, trong đó có 986 trường công lập, 115 trường độc lập, và 31 trường dành cho người Mỹ địa phương. [ 2 ]
Trường Đại học Fullerton ( Fullerton College ), xây dựng năm 1913, là trường ĐH cộng đồng truyền kiếp nhất liên tục hoạt động giải trí ở California, Hoa Kỳ .

Thời Nước Ta Cộng hòa[sửa|sửa mã nguồn]

Trong thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị độc lập diễn ra ở Paris, Nước Ta Cộng hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết hậu chiến, với viễn cảnh là độc lập sẽ lập lại ở Nước Ta, một chính phủ nước nhà liên hiệp sẽ được xây dựng, người lính từ những bên quay trở lại cần được huấn luyện và đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai quy mô cơ sở giáo dục ĐH mới và mang tính thực tiễn được hình thành : trường ĐH cộng đồng và viện ĐH bách khoa .

Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành. Sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Nam California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng: Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).

Công trình điều tra và nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê được sự ủng hộ của cơ quan chính phủ Nước Ta Cộng hòa, nhất là Bộ Giáo dục đào tạo. Vì ý niệm trường ĐH cộng đồng quá mới lạ vào lúc đó, nên quy mô giáo dục này đã được thông dụng thoáng đãng qua báo chí truyền thông, mạng lưới hệ thống truyền thông online, và lý giải cặn kẽ tại thủ đô hà nội TP HCM trong những cuộc hội thảo chiến lược ở Học viện Quốc gia Hành chánh, Trường Cao đẳng Quốc phòng, Hội Việt-Mỹ, v.v. cũng như qua những phiên điều trần tại Quốc hội và những buổi trò chuyện ở những địa phương .Cơ sở tiên phong được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ( 1971 ) ở Định Tường, sau khi quy mô giáo dục mới này được mang đi trình diễn sâu rộng trong dân chúng ; trường này đặt trọng tâm vào nông nghiệp. Các trường ĐH cộng đồng khác gồm có : Duyên Hải ở Nha Trang đặt trọng tâm vào ngư nghiệp, Quảng Đà ở Thành Phố Đà Nẵng ( 1974 ), [ 3 ] và Long Hồ ở Vĩnh Long. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Nước Ta Cộng hòa bị giải tán. [ 4 ] Ở Hồ Chí Minh thì có Trường Đại học Sơ cấp Kỹ thuật TP HCM, tiền thân là Trường Cán sự Kỹ thuật Phú Thọ nay tách ra khỏi khối những trường kỹ sư và hưởng quy định trường ĐH cộng đồng, và Trường Đại học Regina Pacis ( khai giảng vào năm 1973 ) dành riêng cho nữ sinh do Công giáo xây dựng, và theo triết lý ĐH cộng đồng .Vì lấy cộng đồng làm cơ sở, một ĐH cộng đồng dành ưu tiên cho học viên địa phương. Đại học Cộng đồng Tiền Giang đa phần cho học viên của bảy tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về học viên của năm tỉnh miền Nam Trung phần ( từ Tỉnh Bình Định trở vào đến Bình Thuận ). Đại học Cộng đồng TP. Đà Nẵng đặt ưu tiên vào học viên những tỉnh duyên hải phía bắc từ Tỉnh Quảng Ngãi trở ra .Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, những trường ĐH cộng đồng bị giải tán vì bị xem là lạ lẫm với những lý tưởng giáo dục của chính sách mới, vốn theo khuôn mẫu của Liên Xô. Các trường này còn bị coi là quá thân mật với Hoa Kỳ .

Sau năm 1990[sửa|sửa mã nguồn]

Sau năm 1975 mạng lưới hệ thống ĐH cộng đồng ở Nước Ta không còn nữa phải đợi đến thập niên 1990 mới dựng lại .

Triết lý và khái niệm trường ĐH cộng đồng[sửa|sửa mã nguồn]

Trường đại học cộng đồng là cơ sở giáo dục nằm ngay trong lòng cộng đồng và nhằm phục vụ nhu cầu địa phương để phát triển cộng đồng về ba phương diện: văn hóa, xã hội, và kinh tế. Mô hình giáo dục này được tạo ra dựa trên quan niệm rằng giáo dục phải liên hệ với kinh tế và xã hội, để xã hội và kinh tế giúp giáo dục phát triển. Chương trình giảng dạy tại địa phương phải có sự tham gia của đại diện nhân dân để khảo sát nhu cầu của địa phương, có sự góp ý của nhân dân để chương trình học được thiết thực.

Tác dụng của một trường ĐH cộng đồng[sửa|sửa mã nguồn]

Một trường ĐH cộng đồng có những tính năng chính yếu sau :

  1. Giáo dục chuyển tiếp: Chương trình học chuyển tiếp giống hệt chương trình hai năm đầu ở các viện đại học và trường đại học khác. Sau khi hoàn thành chương trình này, sinh viên có thể ghi tên theo học lên cao hơn ở các cơ sở giáo dục đại học khác.
  2. Giáo dục chuyên nghiệp: Chương trình học chuyên nghiệp trong những ngành nghề thiết thực có liên hệ trực tiếp với nền kinh tế của cộng đồng địa phương.
  3. Giáo dục phổ thông: Chương trình học phổ thông, bắt buộc cho cả sinh viên chuyển tiếp lẫn sinh viên thực nghiệp, cung cấp giáo dục tổng quát và mang tính cách toàn diện.
  4. Giáo dục bổ túc: Chương trình học bổ túc dành cho những sinh viên ở ngưỡng cửa đại học nhưng còn thiếu căn bản, và đặc biệt cho những quân nhân sẽ giải ngũ khi hòa bình lập lại, những người vì chiến tranh mà đã bỏ dở việc học và cần được cập nhật và bổ túc kiến thức để có thể tiếp tục học và tái hòa nhập đời sống dân sự.
  5. Giáo dục tráng niên: Những khóa học ngoài giờ làm việc dành những người đã lớn tuổi mong muốn trau dồi kiến thức hay học thêm những kiến thức chuyên môn mới.
  6. Hướng dẫn và cố vấn: Trường có ban hướng dẫn và cố vấn giúp sinh viên chọn ngành, chọn lớp, hướng dẫn học tập, và định hướng nghề nghiệp.
  7. Phụng sự cộng đồng: Trường đại học cộng đồng không chỉ là nơi để sinh viên đến học mà còn là một trung tâm cộng đồng, nơi tất các tầng lớp dân chúng trong cộng đồng có cơ hội gặp gỡ và tham gia hoạt động trong bầu không khí cởi mở và dân chủ. Trường sẽ tổ chức những buổi diễn thuyết, triển lãm, trình diễn văn nghệ, thi đấu thể thao, và những hoạt động phục vụ cộng đồng khác.

Trường cao đẳng cộng đồng từ thập niên 2000[sửa|sửa mã nguồn]

Đầu thập niên 1990, một phái đoàn giáo dục ĐH Nước Ta đã được Ủy ban Hoa Kỳ về Hợp tác Khoa học với Nước Ta và Thương Hội Trường Đại học Cộng đồng Hoa Kỳ mời và hỗ trợ vốn đến thăm quan và tìm hiểu và khám phá 1 số ít trường ĐH cộng đồng ( ở Nước Ta lúc bấy giờ thường gọi là ” trường cao đẳng cộng đồng ” ) ở Wisconsin và Illinois, Hoa Kỳ, và tỉnh British Columbia, Canada. Năm 2000, Bộ Giáo dục và Đào tạo Nước Ta phát hành một lao lý trong thời điểm tạm thời về quy định trường cao đẳng cộng đồng, đặt nền tảng pháp lý cho sự sinh ra của 9 trường cao đẳng cộng đồng tiên phong trong khoảng chừng thời hạn từ năm 2001 đến 2005. Năm 2009, Thương Hội Cao đẳng Cộng đồng Nước Ta ( Vietnam Association of Community Colleges, viết tắt VACC ) được xây dựng. VACC hiện có 52 thành viên, gồm có những trường ĐH, trường cao đẳng, trường cao đẳng cộng đồng, TT giảng dạy, và những cơ sở khác. Tính đến năm 2012, Nước Ta có 13 trường cao đẳng cộng đồng trong cả nước .

giá thành, tuyển sinh, và chương trình huấn luyện và đào tạo[sửa|sửa mã nguồn]

Dù tỉnh có cấp một phần ngân sách nhưng hầu hết ngân sách của trường cao đẳng cộng đồng đến từ những nguồn khác : học phí của sinh viên, hợp đồng đào tạo và giảng dạy với những doanh nghiệp, những khoản thu từ hoạt động giải trí điều tra và nghiên cứu khoa học và dịch vụ, và tiền hỗ trợ vốn của những tổ chức triển khai chính phủ nước nhà và phi chính phủ. Do nhu yếu học tập quá cao, những trường cao đẳng cộng đồng của Nước Ta không hề nhận toàn bộ những sinh viên muốn vào học. Các trường này do đó tuyển chọn sinh viên dựa trên điểm thi của kỳ thi ĐH và cao đẳng tổ chức triển khai trên toàn nước, hoặc tự tổ chức triển khai kỳ thi tuyển sinh riêng. Chỉ tiêu tuyển sinh ở mỗi trường do Bộ Giáo dục và Đào tạo pháp luật .Các trường cao đẳng cộng đồng có những chương trình cao đẳng hệ ba năm, chương trình giáo dục liên tục, chương trình đào tạo và giảng dạy nghề và cấp ghi nhận. Việc học liên thông lên ĐH cũng đã trở nên thông dụng trong những năm gần đây. Tuy vậy, cho đến nay chỉ có một vài trường ĐH được phép nhận sinh viên học liên thông trong một vài chuyên ngành số lượng giới hạn, trong số này có Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Trà Vinh, Trường Đại học Nông nghiệp TP.HN, Trường Đại học Nha Trang, và Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quyết định hành động chuyên ngành nào được nhận sinh viên chuyển tiếp lên từ trường cao đẳng cộng đồng .

Những thử thách của những trường cao đẳng cộng đồng[sửa|sửa mã nguồn]

  1. Thiếu một khung pháp lý rõ ràng nhằm hướng dẫn và hỗ trợ các trường cao đẳng cộng đồng hoạt động và phát triển. Vì mô hình giáo dục này chỉ được tái du nhập gần đây nên chính phủ, sinh viên, và công chúng vẫn còn chưa tin tưởng lắm vào hiệu quả và chất lượng của mô hình này. Ngoài ra, ngân sách dành cho các trường cao đẳng cộng đồng cũng rất giới hạn.
  2. Não trạng cho rằng các trường cao đẳng cộng đồng thấp kém hơn các trường đại học. Các bậc cha mẹ và các sinh viên thường không xem trường cao đẳng cộng đồng là lựa chọn đầu tiên. Một số sinh viên thi rớt đại học sẽ dành một năm để chuẩn bị thi lại, thay vì thi vào trường cao đẳng cộng đồng. Ngay cả những quan chức của chính quyền cũng mang não trạng này. Nhiều lãnh đạo của các tỉnh muốn có trường đại học thay vì trường cao đẳng cộng đồng, dù cho các doanh nghiệp địa phương cho rằng trường cao đẳng cộng đồng sẽ đáp ứng tốt nhu cầu phát triển nhân lực địa phương. Kết quả là một số trường cao đẳng cộng đồng đã được chuyển đổi và nâng cấp thành trường đại học.
  3. Thiếu giảng viên giỏi. Các trường cao đẳng cộng đồng thường nằm ở những vùng nông thôn, do đó khó thu hút nhiều giảng viên có khả năng. Đây cũng là thách thức chung của giáo dục đại học Việt Nam.
  4. Sự quản lý tập trung, chẳng hạn thông qua Bộ Giáo dục và Đào tạo, đang cản trở sự phát triển của các trường cao đẳng cộng đồng. Các cơ quan quản lý đều ở xa cộng đồng địa phương mà trường cao đẳng cộng đồng phục vụ, do đó không đáp ứng kịp thời những điều kiện thay đổi nhanh chóng ở địa phương. Chính quyền trung ương có xu hướng muốn giáo dục đại học có sự đồng dạng để dễ quản lý, nhưng điều này làm cản trở khả năng điều chỉnh của trường cao đẳng cộng đồng nhằm đáp ứng những điều kiện ở địa phương.
  5. Việc chuyển tín chỉ từ trường cao đẳng cộng đồng lên trường đại học gặp nhiều khó khăn vì thiếu những thỏa thuận rõ ràng và vì những khác biệt trong yêu yêu cầu tuyển sinh của hai loại cơ sở giáo dục này. Bộ Giáo dục và Đào tạo không mặn mà với việc chuyển tín chỉ vì nhiều lý do, trong đó có việc thiếu hiểu biết về mô hình trường cao đẳng cộng đồng, quan ngại về chất lượng sinh viên tốt nghiệp từ trường cao đẳng cộng đồng, và sợ rằng danh tiếng của các trường đại học sẽ bị ảnh hưởng nếu các trường cao đẳng cộng đồng không thành công. Bởi vì hầu hết các quan chức Bộ Giáo dục và Đào tạo trước đây được đào tạo theo mô hình giáo dục của Liên Xô, họ gặp khó khăn khi tìm hiểu mô hình community college. Sự thiếu hiểu biết này tiếp tục là rào cản đối với sự phát triển của các trường cao đẳng cộng đồng ở Việt Nam.

Danh sách các trường cao đẳng cộng đồng hiện nay

[sửa|sửa mã nguồn]

  1. Trường Cao đẳng Cộng đồng Lai Châu
  2. Trường Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai
  3. Trường Cao đẳng Cộng đồng Bắc Kạn
  4. Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Nội
  5. Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây
  6. Trường Cao đẳng Cộng đồng Hải Phòng[5]
  7. Trường Cao đẳng Cộng đồng Bình Thuận
  8. Trường Cao đẳng Cộng đồng Đồng Tháp
  9. Trường Cao đẳng Cộng đồng Kiên Giang
  10. Trường Cao đẳng Cộng đồng Bà Rịa-Vũng Tàu[6]
  11. Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long
  12. Trường Cao đẳng Cộng đồng Hậu Giang
  13. Trường Cao đẳng Cộng đồng Sóc Trăng
  14. Trường Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau

Trường ĐH cộng đồng ở một số ít nước khác[sửa|sửa mã nguồn]

Úc không dùng thuật ngữ community college. Tương tự với community college là những trường đại học (college) hay viện giáo dục kỹ thuật và giáo dục thường xuyên (institute of technical and further education).

Ở Canada, thuật ngữ community college cũng ít được dùng. Nước này có 150 cơ sở giáo dục có thể tạm xem là tương đương với community college ở Hoa Kỳ ở một số khía cạnh nhất định. Các cơ sở này thường chỉ được gọi đơn giản là college.

  • Anh T. Le. The History and Future of Community Colleges in Vietnam. New Directions for Community Colleges, 2013: 85–99. doi: 10.1002/cc.20050;
  • Nguyễn Thanh Liêm, Giáo dục ở miền Nam tự do trước 1975 (Education in South Vietnam before 1975), Lê Văn Duyệt Foundation, California (2006), tr. 152-166.
  • Võ Kim Sơn. “Personal Reflections on the Educational System”. The Republic of Vietnam, 1955-1975. Ithaca, NY: Cornell University Press, 2019. Tr 105-116

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay