Tổ tiên chung cuối cùng của người và vượn – Wikipedia tiếng Việt

Cây họ Hominoid
Bộ xương của những thành viên siêu họ vượn Hominoidea. Có hai họ còn sống sót : Hominidae ( vượn lớn ) và Hylobatidae ( vượn hay vượn nhỏ hơn )

Tổ tiên chung cuối cùng của người và vượn (gibbon), viết tắt theo tiếng Anh là GHLCA (gibbon–human last common ancestor) là tổ tiên chung cuối cùng (LCA, last common ancestor) đánh dấu sự phân chia phát sinh loài của siêu họ Hominoidea (vượn) thành họ Hylobatidae (vượn) và Hominidae (vượn lớn). Sự phân chia được ước định niên đại vào đầu Miocen, khoảng 20 đến 16 triệu năm trước.[1]

Hylobatidae có bốn chi vượn (Hylobates có 9 loài, Hoolock với 3 loài, Nomascus với 7 loài và Symphalangus chỉ có 1 loài) chứa 20 loài khác nhau. Hominidae có hai phân họ là Ponginae (đười ươi) và Homininae (vượn châu Phi, bao gồm cả Hominina – dòng dõi người).[1][2]

Mô hình dựa trên hình thái học của Hominidae và Hylobatidae

Lịch sử tiến hóa[sửa|sửa mã nguồn]

Một nghiên cứu và phân tích xác lập niên đại phân tử hàng loạt bộ gen năm năm trước chỉ ra rằng dòng dõi vượn khác với dòng vượn lớn ( Hominidae ) khoảng chừng 17 triệu năm trước ( 16,8 ± 0,9 Ma ), dựa trên một số ít giả định nhất định về thời hạn thế hệ và tỷ suất đột biến. [ 1 ]

Bunopithecus sericus đã tuyệt chủng là một loài vượn hoặc vượn giống vượn (gibbon-like ape) [3]. Sự phân kỳ thích nghi liên quan đến sự sắp xếp lại nhiễm sắc thể đã dẫn đến bức xạ nhanh chóng của bốn chi trong dòng Hylobatidae trong khoảng từ 7 đến 5 Ma. Mỗi chi bao gồm một dòng riêng biệt, được phân định rõ ràng, nhưng trình tự và thời gian phân hóa giữa các chi này rất khó giải quyết do các thông số kỹ thuật phóng xạ và việc phân loại dòng không hoàn chỉnh.[1][2] Phân tích dựa trên tập hợp gần đây về cả phần mã hóa và không mã hóa của bộ gen cho thấy rằng trình tự phân hóa loài có khả năng xảy ra nhất trong dòng Hylobatidae là (Hylobates, (Nomascus, (Hoolock, Symphalangus))).[2]

Hominoidea (hominoids, apes)
Hylobatidae
(gibbons)

Hylobates

Nomascus

Hoolock

Symphalangus

Hominidae (hominids, great apes)
Ponginae
(Orangutans)
Homininae
Gorillini
(Gorilla)
Hominini
Panina
(chimpanzees)
Hominina (Humans)

Diện mạo và sinh thái xanh[sửa|sửa mã nguồn]

Do còn quá khan hiếm hóa thạch nên không rõ GHLCA trông như thế nào. Loài này được cho là “nhỏ hơn người ta nghĩ trước đây” và có kích thước bằng một con vượn.[4] Và cũng không rõ, có phải GHLCA không đuôi và có khung xương sườn phẳng, rộng như con cháu của chúng hay không.[5]: 193 Nhưng có khả năng đó là một loài động vật nhỏ, có lẽ chỉ nặng 12 kg (26 lb). Điều này mâu thuẫn với các giả thuyết trước đây rằng chúng có kích thước tương đương với tinh tinh và vượn người, di chuyển kiểu treo và đu từ cây để lên khỏi mặt đất vì chúng quá lớn. Có thể đã có một cuộc chạy đua vũ trang trong việc chuẩn bị tinh thần để đạt được thức ăn ngon nhất. Ngoài ra, loài Hominidae, xuất hiện muộn hơn, nhỏ hơn tổ tiên của chúng, điều này trái ngược với quá trình tiến hóa bình thường, nơi động vật lớn hơn qua quá trình phát triển tiến hóa của chúng.[4]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vvc.vn
Category : Thế giới

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay