Câu chuyện một đêm trăng

Đấy là một đêm trăng rất sáng trên đất Gia Viễn (Ninh Bình) – nơi hàng trăm người lính trẻ Hà Nội chúng tôi mới lên đường nhập ngũ, về đóng quân ở đây trong đội hình Sư đoàn 320 B (Sư đoàn Đồng Bằng).

Bữa ấy, cơm chiều xong, đến giờ hoạt động và sinh hoạt chính trị, cả Đại đội có lệnh ra sân kho hợp tác, nơi có một dãy bàn kê dài và đèn măng sông đã thắp sáng rực. Đại đội trưởng Tống Công Su cho chúng tôi hay, thời điểm ngày hôm nay đơn vị chức năng được vinh dự đón Sư đoàn trưởng tới thăm. Nói thật, ngày ấy là tân binh, nghe danh Sư đoàn trưởng thấy to lắm ! Cả bọn xúm xít buôn chuyện .
Đang nhỏ to với nhau như vậy, bỗng một đoàn người Open, Đại đội trưởng Tống Công Su hô nghiêm, rồi ra mắt Sư đoàn trưởng Hà Vi Tùng với chiến sỹ. Tiếng vỗ tay vang lên. Dưới ánh trăng, nghe danh Sư đoàn trưởng oai vệ như vậy, nhưng nhìn ông lại rất giản dị và đơn giản. Chỉ một bộ áo lính bạc mầu và trên ngực tịnh không đeo một tấm huân, huy chương nào. Sư đoàn trưởng khoát tay cho đồng đội ngồi xuống, rồi nói rất thân tình :

– Tôi hôm nay đến thăm anh em, và lắng nghe anh em trình bày nguyện vọng tâm tư của mình trong những ngày huấn luyện này. Xin bắt đầu bằng Đại đội trưởng Tống Công Su.

Bạn đang đọc: Câu chuyện một đêm trăng

Thế là Đại đội trưởng của chúng tôi đứng nghiêm, báo cáo giải trình tình hình rèn luyện của đơn vị chức năng. Dù những người lính rất trẻ, hầu hết người Thành Phố Hà Nội nhưng rèn luyện với ý thức “ thao trường đổ mồ hôi, mặt trận bớt máu đổ ”. Phải nói rằng Đại đội trưởng Tống Công Su nói rất hứng khởi, chẳng hiểu những thủ trưởng nghe thế nào, chứ lính ta anh nào cũng lịm đi, thành tích của chính mình mà cứ như nghe kể về những anh hùng …
Khi Đại đội trưởng báo cáo giải trình hết, Sư đoàn trưởng nhìn bạn bè một lượt rồi hỏi :
– Tôi xin được hỏi, bạn bè ăn có no không ?
Ông chỉ một người lính :
– Đồng chí vấn đáp đi. Trả lời thật nhé !
Người chiến sỹ ấy đứng dậy, gãi gãi đầu rồi nói :
– Thưa thủ trưởng, rất no ạ. Em mới nhập ngũ nhưng có cảm tưởng lên được mấy cân vì được ăn no !
Ông lại chỉ một chiến sỹ khác, mép còn lông tơ lún phún :
– Thế còn chiến sỹ ?
Người lính ấy gãi gãi đầu :
– Ngày em đi học sơ tán, mỗi bữa chỉ được ăn một nắm mỳ luộc chấm với muối vừng, còn nay thì ngày ba bữa tì tì ạ …
Sư đoàn trưởng nở một nụ cười :
– Thế là tốt rồi. Tôi xin kể với những chiến sỹ một câu truyện của đời tôi. Năm tôi 20 tuổi, cũng trẻ măng như những chiến sỹ giờ đây, tôi được đi học trường Quân chính. Có một sáng được Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm. Bác mặc một bộ kaki giản dị và đơn giản, đầu đội mũ cát, tay chống gậy. Tôi như mong muốn là một trong những chiến sỹ được chọn đứng trong hàng quân danh dự để đón Bác. Sau khi duyệt đội danh dự, Bác ân cần thăm hỏi động viên những chiến sỹ. Thấy tôi gầy yếu, Bác đến bên cạnh hỏi :
– Cháu ăn có no không ?
Tôi thú thật là cuống quá, nên vấn đáp hơi vội ( chẳng hiểu sao lại gọi Bác bằng Cụ ) :
– Thưa Cụ, chúng cháu ăn hai bữa chính thì no ạ, nhưng bữa sáng hơi thiếu …
Bác lặng đi có chiều suy tư. Rồi sau đó, Bác vào thao tác với Ban Giám hiệu. Các chiến sỹ biết không, ngay sau hôm đó, nắm xôi ăn sáng của chiến sỹ to hơn, hai bữa chính cũng được tăng lên, có rau xào, bí, đậu kho, thi thoảng có cả cá …

Câu chuyện một đêm trăng - 1

Bác Hồ ( Ảnh tư liệu )
Lắng lại một lúc như giấu đi niềm xúc động, ông liên tục :
– Các chiến sỹ ạ, nếu thời điểm ngày hôm nay tôi hỏi những chiến sỹ có ăn no không, đủ không, chính là mang tình cảm, sự chăm sóc của Bác đến với chung những chiến sỹ tất cả chúng ta, đây chính là bài học kinh nghiệm yêu thương và chăm sóc đến người chiến sỹ mà Bác hằng dạy tất cả chúng ta. Rất mong những chiến sỹ mạnh khỏe, ẩm thực ăn uống rất đầy đủ, rèn luyện thật tốt, chân cứng đá mềm để ngày mai vượt Trường Sơn …
Nói xong, Sư đoàn trưởng chào bạn bè rồi đi. Chúng tôi nhìn ông mãi xa dần trong ánh trăng soi, đẹp lộng lẫy với rất nhiều xúc cảm trong lòng .
Một thời hạn ngắn sau, cũng đang thời hạn chúng tôi luyện rèn trên đất Gia Viễn, cả nước bàng hoàng về tin Bác Hồ không còn nữa. Một sự tiếc thương vô vàn trong toàn quân, toàn dân. ” Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa ” .
Tôi nhớ trong buổi lễ truy điệu Bác ở đơn vị chức năng, sau bài phát biểu của Chính trị viên Đại đội, Đại đội trưởng Tống Công Su dõng dạc đọc ” Di chúc ” của Bác để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân : ” Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian nan, quyết tử nhiều hơn nữa, tuy nhiên nhất định thắng lợi trọn vẹn … ” .

Câu chuyện một đêm trăng - 2

Di chúc Bác Hồ ( nguồn : Tạp chí Tuyên giáo )
Đại đội trưởng mới đọc đến đó, anh đã nấc lên, khiến cả Đại đội chúng tôi đứa nào nước mắt cũng giàn giụa. Nhất là ở đoạn : “ Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho những cháu người trẻ tuổi và nhi đồng ” thì gần như cả Đại đội ôm nhau mà khóc. Đến nỗi cứng rắn như Chính trị viên Đại đội cũng òa lên ” Bác ơi ” nức nở …

Đêm ấy, nằm bên tôi, thằng Đức Chính dường như không ngủ. Nó cứ vật mình mà tôi cũng không hiểu vì sao. Nói thêm đôi nét về Chính: Chính là sinh viên Đại học Bách khoa năm thứ hai. Vì quê hương ở miền Nam, Phú Yên hay Quảng Ngãi, Bình Định gì đấy, nên Chính làm đơn tình nguyện nhập ngũ để hy vọng được về quê hương tham gia chiến đấu. Tôi và Chính đều ở nội thành Hà Nội, nhà tôi ở phố Lê Phụng Hiểu, còn nhà Chính ở phố Thụy Khuê.

Chính có một đặc thù là rất yêu âm nhạc. Đi đâu nó cũng có một cây đàn măng đô lin bên mình ( không hiểu nó mượn của ai hay mang theo từ nhà ngày nhập ngũ ). Những lúc hoạt động và sinh hoạt đơn vị chức năng, Trung đội hay Tiểu đội, nó hay đánh đàn và hát. Nhiều bài lắm, đồng đội nhu yếu bài gì là nó hát ngay bài ấy, còn phong phú và đa dạng hơn cả cái loa treo đầu xóm …
Sáng hôm sau, còn mờ sáng, Chính lay tôi dậy :
– Tao hát cho mày nghe bài hát tao thao thức suốt đêm qua để sáng tác nhé .
( Ô hay, thằng này còn biết sáng tác bài hát nữa à, tôi thầm nghĩ. Cứ tưởng nó chỉ biết đàn và hát mà thôi )
– Ông hát đi – Tôi bảo nó .
Thế là nó hắng giọng, dạo đàn và hát luôn :
“ Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Của nhân dân ta dù phải kinh qua khó khăn
Hy sinh nhiều hơn nữa
Song nhất định thắng lợi trọn vẹn .
Đó là điều chắc như đinh ”
Tôi kinh ngạc quá, thốt lên : ” Di chúc của Bác ”. Nó gật đầu và hát tiếp đoạn điệp khúc rất thôi thúc :
” Tiến lên đường đi đánh Mỹ
Quét sạch lũ ngụy quyền
Dù đạn bom, ta quyết tiến không lùi
Đi lên đường giải phóng miền Nam … ”
Và rồi nó hát lại toàn vẹn cả bài hát mới sáng tác cho tôi nghe :
– Hay quá – Tôi cầm lấy tay Chính – Tao phục mày quá. Phổ nhạc được cả ” Di chúc ” của Bác, mang toàn vẹn được lòng yêu thương và tình cảm của Bác cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, có lẽ rằng tao mới thấy ở bài hát này, bài hát của một thằng lính Sư đoàn Đồng Bằng, Sư đoàn Hà Vi Tùng !
Chính nhỏ nhẹ tâm sự với tôi :
– Thật ra hôm nghe Sư trưởng kể chuyện Bác đến thăm trường Quân chính và hỏi chiến sỹ có được ăn no không, tao cảm động lắm, đã muốn viết một bài hát về tình yêu thương của Bác với người chiến sỹ, và của người chiến sỹ với Bác … Cho đến trong ngày hôm qua nghe ” Di chúc ” của Bác thì không hề không viết, nên tao đã thức suốt đêm qua, lồng những tình cảm đã sẵn có từ lâu để viết bài hát này. Cũng hơi liều là dám phổ ” Di chúc ” của Bác, nhưng là tình cảm thật của tao, của một thằng chiến sỹ. Bây giờ tao truyền khẩu cho mày, để tối nay hoạt động và sinh hoạt Đại đội, mày cùng lên hát với tao ship hàng bạn bè cho khí thế nhé – Chính đề nghị với tôi .
Và tất yếu, tôi đã không phủ nhận, nhập tâm ngay bài hát để tối ấy lên hát cùng với Chính. Anh em vỗ tay hát theo quá chừng, và chẳng mấy chốc cả Đại đội đã nhập tâm bài hát và cùng hát vang bài hát ấy. Trong đau thương, thương tiếc Bác vô vàn, bài hát mang cả khí thế của những đoàn quân chúng tôi sẽ biến đau thương thành sức mạnh, sẽ lên đường đánh Mỹ đến ngày toàn thắng như ” Di chúc ” của Bác …
Và bài hát cũng không dừng lại đây. Ít thời hạn sau, có hội diễn toàn Sư đoàn 320 B, Chính trị viên Tiểu đoàn chúng tôi là Đại úy Nguyễn Văn Nhuận đã nhu yếu đội văn nghệ của Tiểu đoàn dứt khoát phải có bài hát của Đức Chính mà ông đặt tên là “ Chiến sỹ Đoàn Đồng Bằng lên đường theo Di chúc của Bác ” để tham gia hội diễn .
Phải nói, ở Hội diễn, tiết mục được hoan nghênh nhiệt liệt, đến mức đến đoạn điệp khúc ( ” Tiến lên đường đi đánh Mỹ, quét sạch lũ ngụy quyền … ” ), những đội văn nghệ những đơn vị chức năng khác tham gia Hội diễn cũng tràn ra sân khấu vỗ tay hát theo. Họ bảo rằng, lần tiên phong có một bài hát phổ ” Di chúc ” của Bác, mang vô vàn tình yêu thương của Bác cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, và cũng làm ngời lên ý chí sắt đá của toàn quân ta quyết biến đau thương thành sức mạnh, lập thêm nhiều chiến công như lời Bác hằng mong …
Tôi nhớ khi tiết mục kết thúc, từ hàng ghế đầu, tổng thể những thủ trưởng chỉ huy Sư đoàn đều bật dậy, ùa lên sân khấu bắt tay đồng đội văn nghệ Tiểu đoàn 11. Chỉ riêng có một người không thấy. Đấy là Sư đoàn trưởng Hà Vi Tùng – người mà bạn bè chúng tôi mong ngóng, nhất là thằng Đức Chính, khiến chúng tôi nói thật là hụt hẫng, thẫn thờ nhiều lắm .
Ông, chính là ông, vị Sư đoàn trưởng mà một đêm trăng đã kể chúng tôi những kỷ niệm đời lính của ông, khiến tổng thể trái tim người lính chúng tôi đều lịm đi vì xúc động, và để một đồng đội của tôi là Đức Chính mở màn cảm hứng để có ngày viết bài hát này về Bác Hồ. Thế mà rồi đêm nay, khi bài hát vang lên trên môi những người lính, chúng tôi kỳ vọng sẽ có ông cùng nghe, thế mà chẳng thấy bóng hình ông đâu .
Ngày ấy chúng tôi không hay biết rằng, sau khi dự tang lễ Bác, Sư đoàn trưởng Hà Vi Tùng đã lặng lẽ lên đường vào mặt trận B5 ác liệt làm Phó Tư lệnh mặt trận để chuẩn bị sẵn sàng cho những chiến dịch lớn sắp mở ra. Thì hóa ra, trước những người lính chúng tôi, Sư đoàn trưởng đã sớm lên đường vào nơi khói lửa, hành quân trong ” Di chúc ” của Bác. Và đấy là nguyên do ông đã không xuất hiện trong đêm hội diễn văn nghệ của Sư đoàn .

Sau đêm hội diễn ấy, theo di chúc nóng bỏng của Bác, chúng tôi cũng lên đường. Nhưng tôi và Đức Chính lại đi hai hướng. Tôi trong đội hình 100 thằng lính bổ sung cho chiến trường Lào, còn Đức Chính trong đội hình còn lại của tiểu đoàn vượt Trường Sơn vào chiến đấu ở chiến trường miền Trung và Tây Nguyên. Nhớ lúc chia tay, Chính ôm lấy tôi và nói: ”Mày nhớ mang bài hát của tao vào chiến trường hát cho anh em nghe nhé. Nhạc tao chưa hay, nhưng mang trọn muôn vàn tình thân yêu của Bác đến với toàn quân, toàn dân…”

Sau cuộc chiến tranh, tôi trở về TP.HN đi học, và có đến phố Thụy Khuê tìm Chính. Tim tôi lặng đi khi người hàng xóm của anh cho tôi hay : Chính đã không còn nữa. Gia đình Chính cũng đã trở về quê nhà. Chính đã quyết tử trong một trận đánh ngay trên quê nhà mình. Sau này có một đồng đội của anh ra Hà nội, tìm đến nhà anh và trao lại cho cha mẹ anh một cây đàn măng đô lin mà anh luôn mang theo người – đó là vật kỷ niệm duy nhất của Đức Chính .
Tôi cứ nghĩ, giá như thời điểm ngày hôm nay chúng tôi có cây đàn ấy, những người lính sư đoàn 320 B chúng tôi sẽ mang cây đàn này ra trước Lăng của Bác – ( từ Thụy Khuê nhà Chính ra Lăng Bác rất gần ), để kính cẩn nâng cây đàn lên và thưa với Bác về người lính binh nhì Đức Chính – sinh viên trường Đại học Bách khoa Thành Phố Hà Nội, đã tay súng tay đàn mang “ muôn vàn tình thân yêu của Bác ” ra mặt trận. Anh ấy đã quyết tử, nhưng tình yêu với Bác, cùng tiếng đàn và bài hát anh ấy phổ theo Di chúc mãi mãi còn ngân vang …
Nghệ sĩ Văn Cao ông là thiên tài hay vĩ nhân thời đại ( 1 )

Source: https://vvc.vn
Category : Vượt Khó

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay