Đề: Bàn về chương “Đất nước” trích từ “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa – Tài liệu text

Đề: Bàn về chương “Đất nước” trích từ “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, có ý kiến cho rằng: Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (52.54 KB, 3 trang )

Đề: Bàn về chương “Đất nước” trích từ “Mặt đường khát
vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, có ý kiến cho rằng: Tư tưởng “Đất
Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng
chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản
trường ca này.
Từ cảm nhận của mình về đoạn trích “Đất Nước”, anh / chị hãy
bình luận về ý kiến trên.
Gợi ý:
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời
chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc lắng
đọng. Đất nước nhân dân là một nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
– Trích dẫn ý kiến : Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca
dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V
của bản trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.
2. Giải thích ý kiến
– “Đất Nước của Nhân dân”: nhằm đề cao vai trò to lớn của nhân dânngười kiến tạo dựng xây, bảo vệ đất nước. Nhân dân chính là chủ thể của đất
nước để “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”.
– “Ca dao thần thoại” là 2 thể loại tiêu biểu, đặc trưng nhất trong kho tàng
văn học dân gian, kết tinh lưu giữ vẻ đẹp tâm hồn dân tộc, gợi mở một thế giới
bay bổng lãng mạn huyền thoại. Tác giả của “ca dao thần thoại” chính là nhân
dân. Khi nói “Đất Nước của ca dao thần thoại” là tác giả muốn khẳng định: Đất
Nước của Nhân dân còn là đất nước của văn hóa dân gian.
– Chủ đạo: chính, quan trọng, chịu trách nhiệm điều khiển.
– Chi phối: có tác dụng điều khiển, quyết định đối với cái gì.
=> Nhận định nhấn mạnh: Trong “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định
Nhân dân là chủ thể của Đất Nước, Đất Nước của nhân dân cũng là Đất Nước
của văn hoá, văn học dân gian. Tư tưởng này điều khiển, chi phối đến nội dung
và hình thức nghệ thuật của toàn bộ chương thơ.
3. Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại thấm
nhuần trong nội dung của đoạn trích:

– Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” được nhà thơ thể hiện cụ thể sinh
động và được triển khai trên nhiều bình diện: trong “thời gian đằng đẵng”, trong
“không gian mênh mông” và từ bề dày truyền thống văn hoá, phong tục, tâm
hồn và tính cách dân tộc, để rồi tác giả đi cắt nghĩa cho câu hỏi ai làm nên đất
nước và đó chính là nhân dân.
– Nhân dân đặt tên cho các danh thắng, tên đất, tên làng để rồi nhân dân
thả hồn vào sông núi. Tác gia liệt kê một loạt các danh thắng từ Bắc vào Nam
đều trong sự gắn bó với nhân dân biết bao thế hệ. Sau mỗi hình thể của sông núi
là hình ảnh của cuộc đời, là ước nguyện của nhân dân: núi Vọng Phu, hòn Trống
Mái, núi Bút non Nghiên…

– Nhân dân làm nên lịch sử bốn nghìn năm. Nhân dân chính những người
dân bình dị sinh ra lớn lên, lao động và chiến đấu, “khi có giặc người con trai ra
trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng
đánh”… Họ là những anh hùng vô danh không ai nhớ mặt đặt tên, sống “giản
dị” chết “bình tâm”, hi sinh thầm lặng cho đất nước.
– Nhân dân là chủ thế sáng tạo ra văn hóa để truyền lại cho thế hệ mai sau
bao gồm các giá trị tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa ngọn lửa tiếng
nói, tên xã tên làng, đến những truyện thần thoại, câu ca dao, tục ngữ. Nhân dân
là anh hùng văn hóa đã làm nên đất nước.
4. Tư tưởng đất nước của nhân dân thấm nhuần trong hình thức thể hiện
– Chất liệu của “ca dao thần thoại” được Nguyễn Khoa Điềm sử dụng
một cách đậm đặc, sáng tạo và vô cùng hiệu quả khi nói về nhân dân – chủ thể
đất nước. Cả đoạn trích “Đất nước” như được bao bọc bởi không khí của văn
hoá dân gian. Cách sử dụng cũng rất linh hoạt, sáng tạo, tác giả thường gợi ra
bằng một vài chữ của câu ca dao, hay 1 hình ảnh, 1 chi tiết trong truyền thuyết,
cổ tích, khi trích dẫn nguyên văn, khi tái tạo trong một cảm xúc mới:
+ Vốn ca dao dân ca, tục ngữ được tác giả vận dụng bằng cách gợi ra
bằng một vài chữ của câu ca, cũng có khi dẫn ra cả câu (“cha mẹ thương nhau

bằng gừng cay muối mặn”, “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “ yêu
em từ thuở trong nôi”…)
+ Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích từ xa xưa: truyền thuyết về
Hùng Vương, truyện cổ Trầu cau, Sự tích hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái…
+ Phong tục tập quán, lối sống, vật dụng dân gian như: miếng trầu;
bới tóc sau đầu; cái kèo cái cột; hạt gạo xay, giã, dần, sàng, hòn than, con cúi…
– Hiệu quả:
+ Tạo nên một không gian nghệ thuật rất riêng vừa bình dị gần gũi hiện
thực vừa bay bổng lãng mạn huyền thoại giàu chất thơ gợi lên được hồn thiêng
của non sông, đất nước.
+ Giúp nhà thơ thể hiện thành công ý tưởng Đất Nước của nhân
dân một cách thuyết phục bởi đã dùng chính chất liệu của nhân dân để nói về
nhân
dân.
5. Bình luận
– Ý kiến trên đúng đắn sâu sắc. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất
Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình
thức chương V của bản trường ca.
– Đúng vì trong quan niệm, nhận thức và cảm xúc đều thấm nhuần tư
tưởng nhân dân làm nên đất nước – nhân dân không phải ai khác mà là những
người vô danh đã kiến tạo bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã dựng xây nên những
truyền thống văn hoá, lịch sử ngàn đời của dân tộc; trong hình thức thể hiện như
hình tượng đến chi tiết đều thấm nhuần chất dân gian.
– Tư tưởng này vô cùng sâu sắc mới mẻ, độc đáo: văn học trung đại quan
niệm đất nước là của nhà vua, văn học hiện đại có ý tưởng đề cao vai trò của
nhân dân nhưng chưa được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật và được lí giải

một cách toàn diện cặn kẽ từ nhiều bình diện trong sự gắn bó với nhân dân như
Nguyễn Khoa Điềm ở chương “Đất Nước” này.

– Ý kiến trên cô đúc được cả cảm hứng chủ đạo và đặc sắc nghệ thuật của
đoạn trích “Đất Nước”. Ý kiến trên giúp người đọc nhận thức sâu sắc những
đóng góp độc đáo mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm khi cảm nhận về đất nước,
thấm thía hơn về ý tưởng “Đất Nước của Nhân dân’.
– Với đương thời: thức tỉnh thế hệ trẻ thời đại đánh Mĩ, nhận thức rõ về
đất nước nhân dân để rồi có trách nhiệm với đất nước, đứng dậy đấu tranh giành
độc lập tự do.
– Với hôm nay: nhắc nhở thế hệ trẻ cần biết trân trọng giá trị truyền thống, phát
huy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, có trách nhiệm với đất nước trong thời đại
mới

– Tư tưởng “ Đất Nước của nhân dân ” được nhà thơ bộc lộ đơn cử sinhđộng và được tiến hành trên nhiều bình diện : trong “ thời hạn đằng đẵng ”, trong “ khoảng trống bát ngát ” và từ bề dày truyền thống cuội nguồn văn hoá, phong tục, tâmhồn và tính cách dân tộc bản địa, để rồi tác giả đi cắt nghĩa cho câu hỏi ai làm ra đấtnước và đó chính là nhân dân. – Nhân dân đặt tên cho những danh thắng, tên đất, tên làng để rồi nhân dânthả hồn vào sông núi. Tác gia liệt kê một loạt những danh thắng từ Bắc vào Namđều trong sự gắn bó với nhân dân biết bao thế hệ. Sau mỗi hình thể của sông núilà hình ảnh của cuộc sống, là ước nguyện của nhân dân : núi Vọng Phu, hòn TrốngMái, núi Bút non Nghiên … – Nhân dân làm ra lịch sử dân tộc bốn nghìn năm. Nhân dân chính những ngườidân bình dị sinh ra lớn lên, lao động và chiến đấu, “ khi có giặc người con trai ratrận ”, “ người con gái quay trở lại nuôi cái cùng con ”, “ giặc đến nhà đàn bà cũngđánh ” … Họ là những anh hùng vô danh không ai nhớ mặt đặt tên, sống “ giảndị ” chết “ bình tâm ”, hi sinh thầm lặng cho quốc gia. – Nhân dân là chủ thế phát minh sáng tạo ra văn hóa truyền thống để truyền lại cho thế hệ mai saubao gồm những giá trị niềm tin và vật chất của quốc gia từ hạt lúa ngọn lửa tiếngnói, tên xã tên làng, đến những truyện thần thoại cổ xưa, câu ca dao, tục ngữ. Nhân dânlà anh hùng văn hóa đã làm nên quốc gia. 4. Tư tưởng quốc gia của nhân dân thấm nhuần trong hình thức biểu lộ – Chất liệu của “ ca dao thần thoại cổ xưa ” được Nguyễn Khoa Điềm sử dụngmột cách đậm đặc, phát minh sáng tạo và vô cùng hiệu suất cao khi nói về nhân dân – chủ thểđất nước. Cả đoạn trích “ Đất nước ” như được phủ bọc bởi không khí của vănhoá dân gian. Cách sử dụng cũng rất linh động, phát minh sáng tạo, tác giả thường gợi rabằng một vài chữ của câu ca dao, hay 1 hình ảnh, 1 cụ thể trong truyền thuyết thần thoại, cổ tích, khi trích dẫn nguyên văn, khi tái tạo trong một xúc cảm mới : + Vốn ca dao dân ca, tục ngữ được tác giả vận dụng bằng cách gợi rabằng một vài chữ của câu ca, cũng có khi dẫn ra cả câu ( “ cha mẹ thương nhaubằng gừng cay muối mặn ”, “ con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc ”, “ yêuem từ thuở trong nôi ” … ) + Thần thoại, truyền thuyết thần thoại, cổ tích từ rất lâu rồi : thần thoại cổ xưa vềHùng Vương, truyện cổ Trầu cau, Sự tích hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái … + Phong tục tập quán, lối sống, đồ vật dân gian như : miếng trầu ; bới tóc sau đầu ; cái kèo cái cột ; hạt gạo xay, giã, dần, sàng, hòn than, con cúi … – Hiệu quả : + Tạo nên một khoảng trống nghệ thuật và thẩm mỹ rất riêng vừa bình dị thân mật hiệnthực vừa bay bổng lãng mạn lịch sử một thời giàu chất thơ gợi lên được hồn thiêngcủa giang sơn, quốc gia. + Giúp nhà thơ bộc lộ thành công xuất sắc ý tưởng sáng tạo Đất Nước của nhândân một cách thuyết phục bởi đã dùng chính vật liệu của nhân dân để nói vềnhândân. 5. Bình luận – Ý kiến trên đúng đắn thâm thúy. Tư tưởng “ Đất Nước của Nhân dân, ĐấtNước của ca dao truyền thuyết thần thoại ” là tư tưởng chủ yếu, chi phối cả nội dung và hìnhthức chương V của bản trường ca. – Đúng vì trong ý niệm, nhận thức và xúc cảm đều thấm nhuần tưtưởng nhân dân làm ra quốc gia – nhân dân không phải ai khác mà là nhữngngười vô danh đã thiết kế bảo vệ, giữ gìn quốc gia, đã dựng xây nên nhữngtruyền thống văn hoá, lịch sử vẻ vang ngàn đời của dân tộc bản địa ; trong hình thức biểu lộ nhưhình tượng đến chi tiết cụ thể đều thấm nhuần chất dân gian. – Tư tưởng này vô cùng thâm thúy mới lạ, độc lạ : văn học trung đại quanniệm quốc gia là của nhà vua, văn học văn minh có sáng tạo độc đáo tôn vinh vai trò củanhân dân nhưng chưa được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật và thẩm mỹ và được lí giảimột cách tổng lực cặn kẽ từ nhiều bình diện trong sự gắn bó với nhân dân nhưNguyễn Khoa Điềm ở chương “ Đất Nước ” này. – Ý kiến trên cô đúc được cả cảm hứng chủ yếu và rực rỡ nghệ thuật và thẩm mỹ củađoạn trích “ Đất Nước ”. Ý kiến trên giúp người đọc nhận thức thâm thúy nhữngđóng góp độc lạ mới lạ của Nguyễn Khoa Điềm khi cảm nhận về quốc gia, thấm thía hơn về sáng tạo độc đáo “ Đất Nước của Nhân dân ’. – Với đương thời : thức tỉnh thế hệ trẻ thời đại đánh Mĩ, nhận thức rõ vềđất nước nhân dân để rồi có nghĩa vụ và trách nhiệm với quốc gia, đứng dậy đấu tranh giànhđộc lập tự do. – Với ngày hôm nay : nhắc nhở thế hệ trẻ cần biết trân trọng giá trị truyền thống lịch sử, pháthuy giữ gìn truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc bản địa, có nghĩa vụ và trách nhiệm với quốc gia trong thời đạimới

Source: https://vvc.vn
Category : Vượt Khó

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay