Bài Khát vọng mùa xuân là sáng tác của nhạc sĩ

I- Mục tiêu
 
• HS hát đúng giai điệu và lời ca bài hát Khát vọng mùa xuân, một giai điệu nổi tiếng và quen thuộc, sáng tác của nhạc sĩ Mô-da.
• HS biết trình bày bài hát qua một vài cách hát tập thể như hát hoà giọng, hát lĩnh xướng, hát nối tiếp.
• Gợi lên những cảm xúc lạc quan, yêu đời với những ước mơ dạt dào của tuổi trẻ trước mùa xuân và cuộc sống.
 

II- Giáo viên chuẩn bị

 
• Nhạc cụ quen dùng.
• Đàn và hát thuần thục bài Khát vọng mùa xuân.
• Tập trình bày một ca khúc thiếu nhi khác của Mô-da, là bài Dòng suối mùa xuân.
 • Nhạc cụ quen dùng. • Đàn và hát thuần thục bài Khát vọng mùa xuân. • Tập trình diễn một ca khúc mần nin thiếu nhi khác của Mô-da, là bài Dòng suối mùa xuân .

III- Tiến trình dạy học

 

HĐ của GV Nội dung HĐ của HS
GV ghi lên bảng    GV trình làng 1. Học hát KHÁT VỌNG MÙA XUÂN  

1. Giới thiệu về tác giả và bài hát: Chúng ta đã làm quen với nhạc sĩ Mô-da trong chương trình âm nhạc lớp 6 và biết về tài năng cũng như đóng góp của ông cho nền âm

HS ghi bài    HS nghe
  nhạc thế giới. Khi mới 5-6 tuổi, Mô-da đã nổi tiếng về tài sáng tác âm nhạc và lã năng trình diễn Violon và Cla-vơ-xanh. Giai đoạn này, ông sáng tác những ca khúc thiếu nhi như Biết nói gì với mẹ đây (bài TĐN số 1- lớp 6), Dòng suối mùa xuân, Khát vọng mùa xuân và rất nhiều bài hát, bản nhạc khác.
Tìm hiểu về bản nhạc:
 
GV yêu cầu – Bản nhạc này viết ở giọng gì? Tại sao? HS tự tìm hiểu
GV hỏi – Hãy tìm hiểu về bản nhạc và kể tên các kí hiệu có trong bài? HS trả lời
GY điều khiển 2. Nghe băng hát mẫu hoặc GV tự trình bày. HS theo dõi
GY hướng dẫn 3. Chia đoạn, chia câu: Bài hát viết hình thức một đoạn, gồm ba câu, mỗi câu có bốn ô nhịp. HS nhắc lại
GV đàn 4. Luyện thanh: 1-2 phút. HS luyện thanh
GY hướng dẫn 5. Tập hát từng câu:
(Lưu ý: Bài hát viết nhịp 6/8, nhưng lúc tập nên hát ở nhịp 3/8, dùng tiết tấu Waltz cho dễ hát. Khi tập hoàn chỉnh, có thể quay lại hát ở nhịp 6/8, sử dụng tiết tấu Slow Rock).
HS tập hát
GV hướng dẫn GV hát mẫu từng câu, đàn giai điệu rồi bắt nhịp (Tập ở nhịp 3/8, khi bắt nhịp, GV đếm 1-2) để HS hát hoà với tiếng đàn. HS thực hiện
GV yêu cầu Tập tương tự với các câu tiếp theo. Tập xong hai câu, hát nối liền hai câu với nhau. Cần lưu ý nốt nhạc cuối câu 1 ngân và nghỉ tới năm phách.
 
HS thực hiện
GV hướng dẫn GV hát hai câu, đàn giai điệu và yêu cầu HS hát cùng với đàn. HS trình bày
GV chỉ định GV chỉ định 1-2 HS hát lại hai câu này. HS hát hai câu
GV yêu cầu Tiến hành dạy hai câu còn lại theo cách tương tự. 6. Hát đầy đủ cả bài:GV hát hàng loạt lời một để HS cảm HS thực hiện
GV thực hiện nhận được nốt ngân dài ở cuối các câu hát.
 
HS ghi nhớ
GV hướng dẫn HS hát lời một, GV điều chỉnh những chỗ cần thiết cho các em hát đúng hơn và tốt hơn.
Hát lời hai: Nửa lớp hát khẽ lời một bằng âm “La”, đồng thời nửa
HS thực hiện
GV điều khiển lớp kia hát lời hai. Sau đó đổi lại cách trình bày.
7. Trình bày bài hát ở mức độ hoàn chỉnh:
HS thực hiện
GV hướng dẫn Dịch giọng = – 3 (Giọng La trưởng), Tiết tấu Waltz, tốc độ = 150. Sau đó có thể dùng tiết tấu Slow Rock, tốc độ = 50.
Tập trình bày cách hát nối tiếp: Chia lớp theo bốn tổ, mỗi tổ lần lượt hát nối tiếp từng câu cả hai lời.
HS tập hát nối tiếp
GV hướng dẫn Tập trình bày cách hát đối đáp:
– Lời một: HS nữ hát câu 1 và câu 3, HS nam hát câu 2 và câu 4.
HS tập hát đối đáp
GV điều khiển – Lời hai: Đổi lại cách trình bày.   8. Củng cố bài:  GV mời một vài HS xung phong trình diễn lời một, lời hai . HS trình bày

 
Lưu ý giáo viên
 
Bài Khát vọng mùa xuân ngoài hai lời hát trong SGK, còn lời ba, xin cung cấp để các bạn tham khảo:
 
Đầu cành đàn chim hót vang lừng, chào xuân hôm nay đã quay về.
Mừng mùa xuân vui đã sang rồi, làm ta xao xuyến tâm hồn.
Ta hát bài ca mừng xuân lại đến, múa hát vang trên thảo nguyên.
Cùng bầy chim oanh cất tiếng ca vang hoà, đến mau tháng năm mong chờ.
Trong tiết này có bài đọc thêm về nhạc sĩ F. Sube, chúng tôi giới thiệu câu chuyện về ông. Nếu có điều kiện, GV kể cho HS nghe.
 

Bản nhạc dang dở

Phrăng Su-be (1797-1828) – nhạc sĩ người Áo – là thiên tài âm nhạc ở thế kỉ 19. Ông là người mở đường cho sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc. Trong cuộc sống ngắn ngủi của mình (ông mất khi chưa đầy 32 tuổi), Su-be đã sáng tác rất nhiều tác phẩm ở các thể loại: giao hưởng, Sô-nát, nhạc kịch, ca khúc… Riêng lĩnh vực ca khúc, Su-be viết hơn 600 tác phẩm, vì thế ông được mệnh danh là “Ông vua ca khúc”.
 
Phrăng Su-be sinh ngày 31.1.1797 ở vùng Lich-ten-tan ngoại ô thành Viên trong một gia đình nhà giáo đông con, am hiểu âm nhạc. Từ nhỏ, Su-be đã có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc và hiểu biết sâu sắc về nền âm nhạc châu Âu.
 
Trong gia đình, Su-be học chơi đàn Violon và Piano qua người cha và người anh cả. về sau, nhạc sĩ – nhà chỉ huy hợp xướng Xôn-xe tiếp tục dạy Su-be chơi đàn và truyền thụ cho cậu những kiến thức về sáng tác âm nhạc. Cũng thời gian này, những sáng tác đầu tay của Su-be đã ra đời. Năm 1812, theo ý nguyện của gia đình, Su-be học trường sư phạm Côn-vin ở Viên. Lúc bây giờ, thành Viên là thủ đô của nền âm nhạc thế giới. Các nhạc sĩ lớn thường đến đây để biểu diễn trong những phòng hoà nhạc sang trọng. Ngoài việc học kiến thức văn hoá, Su-be còn thường xuyên tiếp xúc với không khí âm nhạc của thành Viên qua sáng tác của các nhạc sĩ đi trước như Hay-đơn, Mô-da, Gơ- luých, Bê-tô-ven… Anh tham gia trong dàn nhạc học sinh, đôi khi còn chỉ huy dàn nhạc và là thành viên của dàn hợp xướng. Nhạc sĩ Ru-gi-ca là người đã nhận ra tài năng của Su-be và đưa khả năng sáng tác của Su-be được phát triển toàn diện. Trong thời gian này, Su-be đã sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị.
 
Năm 1815, Su-be tốt nghiệp trường Côn-vin, khi đó anh đã là tác giả của nhiều tác phẩm như khúc Phăng-tê-di cho Piano, bốn bản U-véc- tuya, những tứ tấu và nhiều ca khúc.
 
Sau khi có bằng sư phạm, Su-be làm giáo viên dạy môn toán cho một trường tiểu học. Ngoài lúc đi dạy học, anh dành hầu hết thời gian rảnh rỗi để sáng tác âm nhạc. Chính niềm say mê sáng tác đó đã tạo nên đổi thay trong cuộc đời nhạc sĩ.
 
Một buổi sáng, Su-be vừa đi vừa nhẩm một giai điệu âm nhạc. Trong giấc ngủ chập chờn đêm qua, khi cảm nhận được một nét nhạc thoáng qua, anh liền thức dậy và ghi nó lên bìa một cuốn sách trên bàn. Giờ đây giai điệu đó đang vang lên trong đầu, khiến Su-be cảm thấy rất phẩn chẩn trên đường đến trường.
 
Vào lớp học, Su-be nhắc lũ trẻ chuẩn bị sách vở môn toán để thực hiện một vài bài tập, anh cầm sách lên và đinh chép đề bài lên bảng.
 
Giai điệu trên bìa sách hiện lên trước mắt Su-be, anh lẩm nhẩm khẽ đọc nó và chợt nghĩ, mình phải phát triển giai điệu này. Và thế là thay việc chép bài tập toán lên bảng, Su-be lại kẻ khuông nhạc và viết những nốt nhạc lên đó.
 
Lũ học trò nhỏ rất ngạc nhiên khi thấy thầy giáo dạy toán bỗng dưng kẻ khuông nhạc và mải miết ghi chép. Đầu tiên chúng yên lặng và tò mò nhìn người thầy giáo trẻ, rồi một vài đứa bắt đầu phá lên cười. Lát sau, những đứa nghịch ngợm tung cặp sách, trèo lên bàn mà hò reo. Nhưng dường như Su-be không nghe thấy gì, tâm trí anh đã hoàn toàn bị cuốn hút vào bản nhạc.
 
Nghe tiếng cười đùa, la hét, ông hiệu trưởng đang ngồi trong phòng mình vội đi ra cửa. Ông thấy một số đứa bé từ lớp học chạy ra chạy vào, đuổi nhau dọc hành lang. Vội tới lớp này, nhìn qua cửa sổ, ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy thầy giáo dạy toán Su-be đang mê mải chép nhạc trên bảng, lớp học thì vô cùng ồn ào, lộn xộn. Lại gần, ông kêu lên: “Thầy Su-be, ông đang làm gì vậy?”. Su-be giật mình quay ra, ngỡ ngàng vì sự có mặt của ông hiệu trưởng, anh bối rối và vội xoá những nốt nhạc chi chít trên bảng.
Cuối buổi học, Su-be được mời lên phòng hiệu trưởng, và thật đáng buồn, anh đã phạm phải một điều không thể tha thứ. Anh bị nhà trường cho thôi việc.
 
Sự việc này đã làm gia đình Su-be, đặc biệt là người cha rất thất vọng. Để tránh không khí căng thẳng trong gia đình, Su-be theo một người bạn vào thành Viên. Anh tìm được công việc mới, đó là chơi đàn Piano vào buổi tối cho quán rượu Hoàng hôn. Ban ngày, Su-be ở nhà trọ và sáng tác âm nhạc. Tối tối, anh đến quán chơi đàn phục vụ những vị khách cho đến tận đêm khuya bằng chính những bản nhạc của mình. Khách đến quán Hoàng hôn không phải là những người sành âm nhạc, họ không thấy tài năng trong những sáng tác của Su-be.
 
Cho đến một buổi tối, có vị khách ghé vào quán Hoàng hôn, ông ta trông sang trọng và khá đặc biệt. Những bản nhạc mang phong cách sáng tạo mới mẻ của chàng thanh niên ngồi chơi Piano đã thu hút sự chú ý của ông ta. Anh chàng đeo cặp kính cận có dáng thật hiền lành, ẩn sau cặp kính là đôi mắt sáng đầy vẻ chân thành. Lựa lúc Su-be ngừng chơi đàn, vị khách lại gần và giới thiệu mình là Hen-rích – một bá tước sống ở Man-hai-mơ, ông nhã nhặn đưa danh thiếp và mời Su- be ghé thăm nhà mình khi có dịp. Su-be cám ơn và nhận lời.
 
ít ngày sau, Su-be đên lâu đài của bá tước. Qua chuyện trò, Su-be thấy Hen-rích là một người am hiểu về âm nhạc. Anh trình bày những sáng tác mới của mình, Hen-rích chăm chú nghe và cho rằng, cách sáng tác của Su-be dường như đang hình thành một hướng đi mới trong âm nhạc. Đặc biệt, ông rất thích một bản nhạc Su-be mới sáng tác và có dự định viết thành bản giao hưởng. Bá tước cũng cho biết, ông sắp khánh thành phòng hoà nhạc trong lâu đài. Nhà quí tộc mời Su-be đến trình diễn bản nhạc này và Su-be đã đồng ý.
 
Trong phòng hoà nhạc tại lâu đài của bá tước Hen-rích, nhiều nghệ sĩ tên tuổi có mặt và trình diễn những tác phẩm đang được ưa chuộng. Lát sau, bá tước đứng lên giới thiệu về một sáng tác mới của chàng trai trẻ tên là Su-be. Cúi chào mọi người, Su-be ngồi vào đàn, đặt bản nhạc trước mặt và chơi những nốt đầu tiên. Bản nhạc gồm 4 chương, Su-be trình bày chương I với nhiều sự mới mẻ, táo bạo. Chương nhạc này không mang phong cách của trào lưu âm nhạc thời bấy giờ, khi chủ nghĩa cổ điển đang chiếm ưu thế. Gian phòng chìm trong sự tĩnh lặng, bản nhạc dường như đã chinh phục được ngay cả những người khó tính và sành nhạc nhất. Dưới những ngón tay của Su-be, dòng âm thanh như đang tuôn trào, những giai điệu chứa đầy cảm xúc sâu sắc, những nỗi dằn vặt, những niềm lạc quan và cả những ước mơ cháy bỏng được diễn tả hết sức tính tế.
 
Khi Su-be đang chơi chương II của bản nhạc thì cửa phòng bật mở, một vị khách bước vào. Đó là một cô gái trẻ xinh đẹp. Cô mặc một bộ đồ đi ngựa, mang chiếc mũ rộng vành và vẫn cầm chiếc roi da trên tay. Một cô gái quí phái và đầy vẻ tự tin. Vị khách đến muộn không ngồi ở hàng ghế sau, cô ngẩng cao đầu, kiêu hãnh bước đi giữa căn phòng, rồi ngồi xuống chiếc ghế còn trống phía sau Su-be. Sự xuất hiện của cô gái không làm Su-be chú ý. Tất cả tâm trí anh đang dồn vào bản nhạc, căn phòng vẫn chìm trong tiếng nhạc êm đềm, mọi người vẫn chăm chú lắng nghe, nhưng cô gái thì không chú ý đến điều đó. Quay sang người đàn ông ngồi bên canh, cô chỉ tay vào Su-be và hỏi: “Ai vậy? Thưa ngài!”. Người đàn ông nghiêng đầu khẽ đáp: “Su-be”.
 
Không hiểu vì cớ gì, cô gái cất tiếng cười. Su-be thoáng nghe thấy sau lưng mình tiếng cười của một người phụ nữ. Thật là khiếm nhã, nhưng Su-be vẫn kiên nhẫn chơi tiếp khúc nhạc của mình trong tiếng cười chưa dứt. Để thể hiện sự khó chịu, Su-be bấm tay manh hơn xuống phím đàn, trong khi lẽ ra đây là khúc nhạc có sắc thái êm dịu. Trong phòng, những tiếng xì xào nổi lên, phản đối sự mất lịch sự của cô gái. vẫn chưa đủ, tiêng cười tắt đi giây lát, rồi lại tiếp tục vang lên.
 
Lúc đó, Su-be đã chơi hết chương II của bản nhạc. Dừng tay trên phím đàn, ngồi thẳng người, mắt nhìn phía trước, anh không hề quay lại để xem ai là người đã làm dang dở khúc nhạc của mình. Su-be cố gắng chờ đợi thêm giây lát nhung tiếng cười vẫn không sao dứt được. Bực mình, anh gập bản nhạc lại, đứng lên và bước ra khỏi phòng. Bá tước Hen-rích rảo bước theo, ông nói với vẻ mặt của người có lỗi: “Xin thứ lỗi, Su-be, đó là cháu gái tôi, Ca-ren. Anh hãy ở lại, tôi sẽ bảo nó sang phòng khác”. Nhưng Su-be đã khước từ và xin phép cáo lui.
 
Sau sự việc này, Su-be lại trở về với việc chơi đàn tại quán Hoàng hôn. Khoảng hơn một tháng sau, Su-be nhận được một lá thư gửi từ Hung-ga-ri. Đó là lời đề nghị của quận công Uy-lem, ông ta mời Su-be sang Hung-ga-ri làm gia sư, dạy âm nhạc cho hai người con của mình, kèm theo là lời đảm bảo về điều kiện sống, điều kiện làm việc và mức lương khá tốt so với thu nhập hiện tại của Su-be. Sau khi suy tính, Su-be nhận lời và viết thư hẹn sẽ thu xếp sang Hung-ga-ri.
 
Một cuộc hành trình dài bằng xe ngựa đã đưa Su-be từ Áo sang Hung. Anh đến thủ đô Bu-đa-pét vào một ngày mưa lanh, cỗ xe đưa anh tới một toà lâu đài sừng sững trên ngọn đồi. Người đánh xe cho Su-be biết đây là gia đình quí tộc rất giàu có và nhiều thế lực ở vùng này.
 
Quận công Uy-lem tiếp Su-be trong phòng khách của lâu đài, sau khi sai người xếp phòng cho anh, ông giới thiệu với Su-be về hai người học trò tương lai của anh, đó là hai người con của ông – hai cô gái rất xinh đẹp, Ca-ren 18 và Sten-li 16 tuổi. Cái tên Ca-ren nghe quen quen, gợi cho Su-be nhớ tới cô gái đã làm dở bản nhạc khi anh biểu diễn trong lâu đài của bá tước Hen-rích. Su-be không biết rằng, thực ra đó không phải là sự tình cờ, sau khi nghe Su-be đàn tại lâu đài của người chú, cô gái đã yêu cầu cha mình mời Su-be sang dạy đàn cho hai chị em. Gặp Su-be tại nhà mình, Ca-ren đã không còn vẻ kiêu hãnh như lần trước. Cô khiêm nhường cúi chào Su-be, người gia sư mới trong gia đình.
 
Trong thời gian Su-be làm gia sư cho gia đình quận công Uy-lem, anh cố gắng cư xử đứng mực và làm tốt mọi bổn phận của mình. Cô em Sten-li tỏ ra có năng khiếu âm nhạc và học đàn rất tốt, còn Ca-ren thì không được như vậy, cô hay trêu đùa Su-be và cũng chểnh mảng khi tập đàn. Nhưng tuổi trẻ có những qui luật riêng của nó, cái gì đến sẽ phải đến. ít lâu sau, tình cảm giữa Su-be và Ca-ren không chỉ đơn giản là tình thầy trò nữa, giữa hai người đã nảy nở một tình yêu. Mối tình đầu với cả hai người, một nhạc sĩ trẻ người Áo với cô gái quí tộc Hung- ga-ri, đó là tình yêu rất chân thành và trong trắng. Trong cảm xúc dâng trào của tình yêu đầu tiên, họ không biết che dấu tình cảm của mình. Quận công Uy-lem sớm nhận ra và không thể đồng ý với việc này. Con gái ông- Ca-ren – một cô gái quí tộc giàu có và xinh đẹp lại có thể yêu một anh chàng nhạc sư nghèo và chưa có tên tuổi được ư. Gia đình ông đang nắm giữ nhiều quyền lực, con gái ông phải kết hôn với một chàng quí tộc người Hung-ga-ri, con của một gia đình cũng giàu có và quyền lực như thế. Không cần suy nghĩ lâu, quận công Uy-lem quyết định không để Su-be tiếp tục dạy đàn cho hai cô con gái nữa. Và Su-be được mời ra khỏi lâu đài. Tuy nhiên, anh vẫn ở lại Bu-đa-pét.
 
Trong thời gian ở Hung-ga-ri, Su-be đã nếm trải những sự ngọt ngào và cả những nỗi niềm cay đắng của mối tình đầu vô vọng. Anh vùi đầu vào sáng tác. Đôi khi anh cũng được gặp nàng, ấy là khi Ca-ren tự tìm đến. Thời gian này, Su-be sáng tác rất nhiều, trong đó có tập liên khúc “Cô chủ cối xay xinh đẹp”, phổ thơ của Sin-le với ý định tặng Ca-ren. Anh là nhạc sĩ đầu tiên sáng tác thể loại liên ca khúc. Trong tập “Cô chủ cối xay xinh đẹp” Su-be đã ví mình là anh thợ xay nghèo, làm thuê cho cô chủ xinh đẹp. Anh thợ xay thầm yêu cô chủ nhưng không được đáp lại. Còn chàng quí tộc người Hung-ga-ri, xuất hiện trong tập bài hát qua hình ảnh người thợ săn.
 
Thấy con gái mình vẫn còn lưu luyến với Su-be, quận công Uy-lem cho người sang Áo, yêu cầu cha mẹ Su-be viết thư gọi con trai về. Su-be phải từ giã Ca-ren để trở về quê hương.
 
Ở Áo, Su-be lại lao vào sáng tác để quên đi mối tình đầu. Thời gian này, Su-be hoàn thành bản giao hưởng số 8 – bản nhạc mà anh đã trình diễn lần đầu trong lâu đài của bá tước Hen-rích. Vài năm sau, Su-be nhận được một lá thư từ Hung-ga-ri, Ca-ren báo tin cô sắp lấy chồng và mời Su-be tới dự đám cưới. Là người sâu nặng với mối tình đầu, Su-be thu xếp đi Hung-ga-ri lần nữa.
Su-be đến Bu-đa-pét lần thứ hai cũng vào một ngày trời mưa, buồn và lạnh lẽo. Anh xuống xe và dừng lại bên đường, nhìn những cỗ xe ngựa sang trọng từ nhà thờ đi ra. Đây là một đám cưới được tổ chức rất linh đình, bởi cả hai bên đều là những gia đình quí tộc giàu có. Ngồi trên xe cùng chồng, Ca-ren vẫn dõi ánh mắt xuống đường, cô mong được thấy bóng người yêu cũ – giờ đã là một nhạc sĩ tài năng. Bất chợt, cô thấy Su-be đứng ven đường giữa những người khác. Ca-ren yêu cầu dừng xe, cho người xuống mời Su-be lên cỗ xe khác để cùng tới lâu đài, nơi tổ chức đám cưới.
 
Giữa rượu, hoa và những lời chúc tụng, Ca-ren vẫn không giấu được nét u buồn, trên môi cô phảng phất một nụ cười cay đắng. Cô lại gần Su-be và nói:
 
– Nhiều năm trước, tôi đã một lần làm dang dở khúc nhạc của anh. Không hiểu anh có tha thứ cho tôi chưa? Nhưng hôm nay trong ngày cưới của mình, tôi mong được nghe lại bản nhạc này lần nữa.
 
Trước lời yêu cầu tha thiết của Ca-ren, Su-be đã cố gắng dẹp đi tâm trạng đau buồn. Anh ngồi vào đàn Piano và dạo những nốt nhạc đầu tiên. Người ta nói âm nhạc có thể xoa dịu được những nỗi đau, nhưng không phải bao giờ cũng đứng. Đến chương II của bản nhạc, ở chỗ mà lần trước Ca-ren cất tiếng cười, thì lần này giữa dòng âm thanh dịu dàng đó, nhìn Su-be chơi đàn, bỗng nhiên cô khóc nức nở. Căn phòng lặng đi. Su-be vẫn lăng lẽ chơi đàn. Cô dâu vẫn khóc. Chú rể bước ra phía cửa sổ. Chẳng có một lời nào an ủi Ca-ren.
 
Hết chương II, Su-be dừng tay rồi yên lặng nhìn bản nhạc. Anh thầm hỏi liệu bản nhạc này có phải là nguyên nhân gây nên những xáo động trong cuộc sống của anh và nàng. Rồi Su-be đứng lên, chậm rãi cầm bản nhạc tách làm đôi, tay cầm chương III và IV mà đã hai lần bị bỏ dở. Ngập ngừng giây lát, anh tiến lại phía lò sưởi, đưa tập nhạc vào ngọn lửa. Nhìn ngọn lửa đốt cháy bản nhạc, Su-be thầm nghĩ có lẽ anh đã tự thiêu cháy nửa sau của cuộc đời mình, nửa sau của những ước mơ không có hi vọng trở thành hiện thực? Anh lặng lẽ rời khỏi căn phòng, chỉ mang theo hai chương đầu của bản nhạc. Su-be cô đơn đi giữa tuyết trắng và giá lanh của đất nước Hung-ga-ri.
 
Trở về Viên, Su-be tiếp tục hoàn thành những tác phẩm khác. Nhưng giao hưởng số 8 – bản nhạc dang dở – là định mệnh của cuộc đời ông. Bản giao hưởng này là kỉ niệm về mối tình đầu dang dở của Su-be. Bản nhạc rất hay, sâu sắc và thấm đượm tình yêu cuộc sống, nó là một tuyệt tác âm nhạc của Su-be. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau khi bản nhạc này được trình diễn lần đầu tiên, Su-be đã qua đời.
 
Phrăng Su-be mất ngày 19 tháng 11 năm 1828 tại Viên. Ông để lại một tài sản âm nhạc vô giá cho đời sau, với khoảng hơn 1500 tác phẩm, trong đó có 9 giao hưởng và hơn 600 ca khúc. Trên ngôi mộ của Su-be, tấm bia được nhà thơ vĩ đại người Áo là Glin-pac-xe đề tặng: “Thần chết đặt tại đây một kho tàng quí báu, nhưng quí báu hơn là những hi vọng tươi đẹp của ông”.
 Phrăng Su-be ( 1797 – 1828 ) – nhạc sĩ người Áo – là thiên tài âm nhạc ở thế kỉ 19. Ông là người mở đường cho sự sinh ra của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc. Trong đời sống ngắn ngủi của mình ( ông mất khi chưa đầy 32 tuổi ), Su-be đã sáng tác rất nhiều tác phẩm ở những thể loại : giao hưởng, Sô-nát, nhạc kịch, ca khúc … Riêng nghành ca khúc, Su-be viết hơn 600 tác phẩm, vì vậy ông được ca tụng là “ Ông vua ca khúc ”. Phrăng Su-be sinh ngày 31.1.1797 ở vùng Lich-ten-tan ngoại ô thành Viên trong một mái ấm gia đình nhà giáo đông con, am hiểu âm nhạc. Từ nhỏ, Su-be đã có năng khiếu sở trường đặc biệt quan trọng về âm nhạc và hiểu biết thâm thúy về nền âm nhạc châu Âu. Trong mái ấm gia đình, Su-be học chơi đàn Violon và Piano qua người cha và người anh cả. về sau, nhạc sĩ – nhà chỉ huy hợp xướng Xôn-xe liên tục dạy Su-be chơi đàn và truyền thụ cho cậu những kỹ năng và kiến thức về sáng tác âm nhạc. Cũng thời hạn này, những sáng tác đầu tay của Su-be đã sinh ra. Năm 1812, theo ý nguyện của mái ấm gia đình, Su-be học trường sư phạm Côn-vin ở Viên. Lúc giờ đây, thành Viên là Hà Nội Thủ Đô của nền âm nhạc quốc tế. Các nhạc sĩ lớn thường đến đây để trình diễn trong những phòng hoà nhạc sang chảnh. Ngoài việc học kỹ năng và kiến thức văn hoá, Su-be còn tiếp tục tiếp xúc với không khí âm nhạc của thành Viên qua sáng tác của những nhạc sĩ đi trước như Hay-đơn, Mô-da, Gơ – luých, Bê-tô-ven … Anh tham gia trong dàn nhạc học viên, nhiều lúc còn chỉ huy dàn nhạc và là thành viên của dàn hợp xướng. Nhạc sĩ Ru-gi-ca là người đã nhận ra năng lực của Su-be và đưa năng lực sáng tác của Su-be được tăng trưởng tổng lực. Trong thời hạn này, Su-be đã sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị. Năm 1815, Su-be tốt nghiệp trường Côn-vin, khi đó anh đã là tác giả của nhiều tác phẩm như khúc Phăng-tê-di cho Piano, bốn bản U-véc – tuya, những tứ tấu và nhiều ca khúc. Sau khi có bằng sư phạm, Su-be làm giáo viên dạy môn toán cho một trường tiểu học. Ngoài lúc đi dạy học, anh dành hầu hết thời hạn rảnh rỗi để sáng tác âm nhạc. Chính niềm mê hồn sáng tác đó đã tạo nên thay đổi trong cuộc sống nhạc sĩ. Một buổi sáng, Su-be vừa đi vừa nhẩm một giai điệu âm nhạc. Trong giấc ngủ chập chờn đêm qua, khi cảm nhận được một nét nhạc thoáng qua, anh liền thức dậy và ghi nó lên bìa một cuốn sách trên bàn. Giờ đây giai điệu đó đang vang lên trong đầu, khiến Su-be cảm thấy rất phẩn chẩn trên đường đến trường. Vào lớp học, Su-be nhắc lũ trẻ sẵn sàng chuẩn bị sách vở môn toán để thực thi một vài bài tập, anh cầm sách lên và đinh chép đề bài lên bảng. Giai điệu trên bìa sách hiện lên trước mắt Su-be, anh lẩm nhẩm khẽ đọc nó và chợt nghĩ, mình phải tăng trưởng giai điệu này. Và thế là thay việc chép bài tập toán lên bảng, Su-be lại kẻ khuông nhạc và viết những nốt nhạc lên đó. Lũ học trò nhỏ rất quá bất ngờ khi thấy thầy giáo dạy toán bỗng dưng kẻ khuông nhạc và mải miết ghi chép. Đầu tiên chúng yên lặng và tò mò nhìn người thầy giáo trẻ, rồi một vài đứa mở màn phá lên cười. Lát sau, những đứa nghịch ngợm tung cặp sách, trèo lên bàn mà hò reo. Nhưng có vẻ như Su-be không nghe thấy gì, tâm lý anh đã trọn vẹn bị hấp dẫn vào bản nhạc. Nghe tiếng cười đùa, hô hào, ông hiệu trưởng đang ngồi trong phòng mình vội đi ra cửa. Ông thấy 1 số ít đứa bé từ lớp học chạy ra chạy vào, đuổi nhau dọc hiên chạy dọc. Vội tới lớp này, nhìn qua hành lang cửa số, ông vô cùng quá bất ngờ khi thấy thầy giáo dạy toán Su-be đang mê mải chép nhạc trên bảng, lớp học thì vô cùng ồn ào, lộn xộn. Lại gần, ông kêu lên : “ Thầy Su-be, ông đang làm gì vậy ? ”. Su-be giật mình quay ra, ngỡ ngàng vì sự xuất hiện của ông hiệu trưởng, anh hoảng sợ và vội xoá những nốt nhạc chi chít trên bảng. Cuối buổi học, Su-be được mời lên phòng hiệu trưởng, và thật đáng buồn, anh đã phạm phải một điều không hề tha thứ. Anh bị nhà trường cho thôi việc. Sự việc này đã làm mái ấm gia đình Su-be, đặc biệt quan trọng là người cha rất tuyệt vọng. Để tránh không khí căng thẳng mệt mỏi trong mái ấm gia đình, Su-be theo một người bạn vào thành Viên. Anh tìm được việc làm mới, đó là chơi đàn Piano vào buổi tối cho quán nhậu Hoàng hôn. Ban ngày, Su-be ở nhà trọ và sáng tác âm nhạc. Tối tối, anh đến quán chơi đàn Giao hàng những vị khách cho đến tận đêm khuya bằng chính những bản nhạc của mình. Khách đến quán Hoàng hôn không phải là những người sành âm nhạc, họ không thấy năng lực trong những sáng tác của Su-be. Cho đến một buổi tối, có vị khách ghé vào quán Hoàng hôn, ông ta trông sang chảnh và khá đặc biệt quan trọng. Những bản nhạc mang phong thái phát minh sáng tạo mới lạ của chàng người trẻ tuổi ngồi chơi Piano đã lôi cuốn sự quan tâm của ông ta. Anh chàng đeo cặp kính cận có dáng thật hiền lành, ẩn sau cặp kính là đôi mắt sáng đầy vẻ chân thành. Lựa lúc Su-be ngừng chơi đàn, vị khách lại gần và ra mắt mình là Hen-rích – một bá tước sống ở Man-hai-mơ, ông nhã nhặn đưa danh thiếp và mời Su – be ghé thăm nhà mình khi có dịp. Su-be cám ơn và nhận lời. ít ngày sau, Su-be đên thành tháp của bá tước. Qua chuyện trò, Su-be thấy Hen-rích là một người am hiểu về âm nhạc. Anh trình diễn những sáng tác mới của mình, Hen-rích chú ý nghe và cho rằng, cách sáng tác của Su-be có vẻ như đang hình thành một hướng đi mới trong âm nhạc. Đặc biệt, ông rất thích một bản nhạc Su-be mới sáng tác và có dự tính viết thành bản giao hưởng. Bá tước cũng cho biết, ông sắp khánh thành phòng hoà nhạc trong thành tháp. Nhà quí tộc mời Su-be đến trình diễn bản nhạc này và Su-be đã đồng ý chấp thuận. Trong phòng hoà nhạc tại thành tháp của bá tước Hen-rích, nhiều nghệ sĩ tên tuổi xuất hiện và trình diễn những tác phẩm đang được yêu thích. Lát sau, bá tước đứng lên trình làng về một sáng tác mới của chàng trai trẻ tên là Su-be. Cúi chào mọi người, Su-be ngồi vào đàn, đặt bản nhạc trước mặt và chơi những nốt tiên phong. Bản nhạc gồm 4 chương, Su-be trình diễn chương I với nhiều sự mới lạ, táo bạo. Chương nhạc này không mang phong thái của trào lưu âm nhạc thời bấy giờ, khi chủ nghĩa cổ xưa đang chiếm lợi thế. Gian phòng chìm trong sự yên bình, bản nhạc có vẻ như đã chinh phục được ngay cả những người khó chiều chuộng và sành nhạc nhất. Dưới những ngón tay của Su-be, dòng âm thanh như đang tuôn trào, những giai điệu chứa đầy xúc cảm thâm thúy, những nỗi dằn vặt, những niềm sáng sủa và cả những tham vọng cháy bỏng được diễn đạt rất là tính tế. Khi Su-be đang chơi chương II của bản nhạc thì cửa phòng bật mở, một vị khách bước vào. Đó là một cô gái trẻ xinh đẹp. Cô mặc một bộ đồ đi ngựa, mang chiếc mũ rộng vành và vẫn cầm chiếc roi da trên tay. Một cô gái quí phái và đầy vẻ tự tin. Vị khách đến muộn không ngồi ở hàng ghế sau, cô ngẩng cao đầu, tự tôn bước đi giữa căn phòng, rồi ngồi xuống chiếc ghế còn trống phía sau Su-be. Sự Open của cô gái không làm Su-be chú ý quan tâm. Tất cả tâm lý anh đang dồn vào bản nhạc, căn phòng vẫn chìm trong tiếng nhạc êm đềm, mọi người vẫn chú ý lắng nghe, nhưng cô gái thì không quan tâm đến điều đó. Quay sang người đàn ông ngồi bên canh, cô chỉ tay vào Su-be và hỏi : “ Ai vậy ? Thưa ngài ! ”. Người đàn ông nghiêng đầu khẽ đáp : “ Su-be ”. Không hiểu vì cớ gì, cô gái cất tiếng cười. Su-be thoáng nghe thấy sau sống lưng mình tiếng cười của một người phụ nữ. Thật là khiếm nhã, nhưng Su-be vẫn kiên trì chơi tiếp khúc nhạc của mình trong tiếng cười chưa dứt. Để bộc lộ sự không dễ chịu, Su-be bấm tay manh hơn xuống phím đàn, trong khi lẽ ra đây là khúc nhạc có sắc thái êm dịu. Trong phòng, những tiếng xì xào nổi lên, phản đối sự mất lịch sự và trang nhã của cô gái. vẫn chưa đủ, tiêng cười tắt đi giây lát, rồi lại liên tục vang lên. Lúc đó, Su-be đã chơi hết chương II của bản nhạc. Dừng tay trên phím đàn, ngồi thẳng người, mắt nhìn phía trước, anh không hề quay lại để xem ai là người đã làm dang dở khúc nhạc của mình. Su-be nỗ lực chờ đón thêm giây lát nhung tiếng cười vẫn không sao dứt được. Bực mình, anh gập bản nhạc lại, đứng lên và bước ra khỏi phòng. Bá tước Hen-rích rảo bước theo, ông nói với vẻ mặt của người có lỗi : “ Xin thứ lỗi, Su-be, đó là cháu gái tôi, Ca-ren. Anh hãy ở lại, tôi sẽ bảo nó sang phòng khác ”. Nhưng Su-be đã khước từ và xin phép cáo lui. Sau vấn đề này, Su-be lại trở lại với việc chơi đàn tại quán Hoàng hôn. Khoảng hơn một tháng sau, Su-be nhận được một lá thư gửi từ Hung-ga-ri. Đó là lời đề xuất của quận công Uy-lem, ông ta mời Su-be sang Hung-ga-ri làm gia sư, dạy âm nhạc cho hai người con của mình, kèm theo là lời bảo vệ về điều kiện kèm theo sống, điều kiện kèm theo thao tác và mức lương khá tốt so với thu nhập hiện tại của Su-be. Sau khi suy tính, Su-be nhận lời và viết thư hẹn sẽ sắp xếp sang Hung-ga-ri. Một cuộc hành trình dài dài bằng xe ngựa đã đưa Su-be từ Áo sang Hung. Anh đến Thành Phố Hà Nội Bu-đa-pét vào một ngày mưa lanh, cỗ xe đưa anh tới một toà thành tháp sừng sững trên ngọn đồi. Người đánh xe cho Su-be biết đây là mái ấm gia đình quí tộc rất giàu sang và nhiều thế lực ở vùng này. Quận công Uy-lem tiếp Su-be trong phòng khách của thành tháp, sau khi sai người xếp phòng cho anh, ông ra mắt với Su-be về hai người học trò tương lai của anh, đó là hai người con của ông – hai cô gái rất xinh đẹp, Ca-ren 18 và Sten-li 16 tuổi. Cái tên Ca-ren nghe quen quen, gợi cho Su-be nhớ tới cô gái đã làm dở bản nhạc khi anh trình diễn trong thành tháp của bá tước Hen-rích. Su-be không biết rằng, thực ra đó không phải là sự vô tình, sau khi nghe Su-be đàn tại thành tháp của người chú, cô gái đã nhu yếu cha mình mời Su-be sang dạy đàn cho hai chị em. Gặp Su-be tại nhà mình, Ca-ren đã không còn vẻ tự tôn như lần trước. Cô khiêm nhường cúi chào Su-be, người gia sư mới trong mái ấm gia đình. Trong thời hạn Su-be làm gia sư cho mái ấm gia đình quận công Uy-lem, anh nỗ lực cư xử đứng mực và làm tốt mọi bổn phận của mình. Cô em Sten-li tỏ ra có năng khiếu sở trường âm nhạc và học đàn rất tốt, còn Ca-ren thì không được như vậy, cô hay trêu đùa Su-be và cũng chểnh mảng khi tập đàn. Nhưng tuổi trẻ có những qui luật riêng của nó, cái gì đến sẽ phải đến. ít lâu sau, tình cảm giữa Su-be và Ca-ren không chỉ đơn thuần là tình thầy trò nữa, giữa hai người đã nảy nở một tình yêu. Mối tình đầu với cả hai người, một nhạc sĩ trẻ người Áo với cô gái quí tộc Hung – ga-ri, đó là tình yêu rất chân thành và trong trắng. Trong cảm hứng dâng trào của tình yêu tiên phong, họ không biết che dấu tình cảm của mình. Quận công Uy-lem sớm nhận ra và không hề chấp thuận đồng ý với việc này. Con gái ông – Ca-ren – một cô gái quí tộc giàu sang và xinh đẹp lại hoàn toàn có thể yêu một chàng trai nhạc sư nghèo và chưa có tên tuổi được ư. Gia đình ông đang nắm giữ nhiều quyền lực tối cao, con gái ông phải kết hôn với một chàng quí tộc người Hung-ga-ri, con của một mái ấm gia đình cũng phong phú và quyền lực tối cao như vậy. Không cần tâm lý lâu, quận công Uy-lem quyết định hành động không để Su-be liên tục dạy đàn cho hai cô con gái nữa. Và Su-be được mời ra khỏi thành tháp. Tuy nhiên, anh vẫn ở lại Bu-đa-pét. Trong thời hạn ở Hung-ga-ri, Su-be đã nếm trải những sự ngọt ngào và cả những nỗi niềm cay đắng của mối tình đầu vô vọng. Anh vùi đầu vào sáng tác. Đôi khi anh cũng được gặp nàng, ấy là khi Ca-ren tự tìm đến. Thời gian này, Su-be sáng tác rất nhiều, trong đó có tập liên khúc “ Cô chủ cối xay xinh đẹp ”, phổ thơ của Sin-le với dự tính Tặng Ngay Ca-ren. Anh là nhạc sĩ tiên phong sáng tác thể loại liên ca khúc. Trong tập “ Cô chủ cối xay xinh đẹp ” Su-be đã ví mình là anh thợ xay nghèo, làm thuê cho cô chủ xinh đẹp. Anh thợ xay thầm yêu cô chủ nhưng không được đáp lại. Còn chàng quí tộc người Hung-ga-ri, Open trong tập bài hát qua hình ảnh người thợ săn. Thấy con gái mình vẫn còn lưu luyến với Su-be, quận công Uy-lem cho người sang Áo, nhu yếu cha mẹ Su-be viết thư gọi con trai về. Su-be phải từ giã Ca-ren để trở về quê nhà. Ở Áo, Su-be lại lao vào sáng tác để quên đi mối tình đầu. Thời gian này, Su-be triển khai xong bản giao hưởng số 8 – bản nhạc mà anh đã trình diễn lần đầu trong thành tháp của bá tước Hen-rích. Vài năm sau, Su-be nhận được một lá thư từ Hung-ga-ri, Ca-ren báo tin cô sắp lấy chồng và mời Su-be tới dự đám cưới. Là người sâu nặng với mối tình đầu, Su-be sắp xếp đi Hung-ga-ri lần nữa. Su-be đến Bu-đa-pét lần thứ hai cũng vào một ngày trời mưa, buồn và lạnh lẽo. Anh xuống xe và dừng lại bên đường, nhìn những cỗ xe ngựa sang trọng và quý phái từ nhà thời thánh đi ra. Đây là một đám cưới được tổ chức triển khai rất linh đình, bởi cả hai bên đều là những mái ấm gia đình quí tộc phong phú. Ngồi trên xe cùng chồng, Ca-ren vẫn dõi ánh mắt xuống đường, cô mong được thấy bóng người yêu cũ – giờ đã là một nhạc sĩ năng lực. Bất chợt, cô thấy Su-be đứng ven đường giữa những người khác. Ca-ren nhu yếu dừng xe, cho người xuống mời Su-be lên cỗ xe khác để cùng tới thành tháp, nơi tổ chức triển khai đám cưới. Giữa rượu, hoa và những lời chúc tụng, Ca-ren vẫn không giấu được nét u buồn, trên môi cô phảng phất một nụ cười cay đắng. Cô lại gần Su-be và nói : – Nhiều năm trước, tôi đã một lần làm dang dở khúc nhạc của anh. Không hiểu anh có tha thứ cho tôi chưa ? Nhưng ngày hôm nay trong ngày cưới của mình, tôi mong được nghe lại bản nhạc này lần nữa. Trước lời nhu yếu tha thiết của Ca-ren, Su-be đã nỗ lực dẹp đi tâm trạng đau buồn. Anh ngồi vào đàn Piano và dạo những nốt nhạc tiên phong. Người ta nói âm nhạc hoàn toàn có thể xoa dịu được những nỗi đau, nhưng không phải khi nào cũng đứng. Đến chương II của bản nhạc, ở chỗ mà lần trước Ca-ren cất tiếng cười, thì lần này giữa dòng âm thanh dịu dàng êm ả đó, nhìn Su-be chơi đàn, tự nhiên cô khóc nức nở. Căn phòng lặng đi. Su-be vẫn lăng lẽ chơi đàn. Cô dâu vẫn khóc. Chú rể bước ra phía hành lang cửa số. Chẳng có một lời nào an ủi Ca-ren. Hết chương II, Su-be dừng tay rồi yên lặng nhìn bản nhạc. Anh thầm hỏi liệu bản nhạc này có phải là nguyên do gây nên những xáo động trong đời sống của anh và nàng. Rồi Su-be đứng lên, chậm rãi cầm bản nhạc tách làm đôi, tay cầm chương III và IV mà đã hai lần bị bỏ lỡ. Ngập ngừng giây lát, anh tiến lại phía lò sưởi, đưa tập nhạc vào ngọn lửa. Nhìn ngọn lửa đốt cháy bản nhạc, Su-be thầm nghĩ có lẽ rằng anh đã tự thiêu cháy nửa sau của cuộc sống mình, nửa sau của những tham vọng không có hy vọng trở thành hiện thực ? Anh lặng lẽ rời khỏi căn phòng, chỉ mang theo hai chương đầu của bản nhạc. Su-be đơn độc đi giữa tuyết trắng và giá lanh của quốc gia Hung-ga-ri. Trở về Viên, Su-be liên tục hoàn thành xong những tác phẩm khác. Nhưng giao hưởng số 8 – bản nhạc dang dở – là định mệnh của cuộc sống ông. Bản giao hưởng này là kỉ niệm về mối tình đầu dang dở của Su-be. Bản nhạc rất hay, thâm thúy và thấm đượm tình yêu đời sống, nó là một tuyệt tác âm nhạc của Su-be. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau khi bản nhạc này được trình diễn lần tiên phong, Su-be đã qua đời. Phrăng Su-be mất ngày 19 tháng 11 năm 1828 tại Viên. Ông để lại một gia tài âm nhạc vô giá cho đời sau, với khoảng chừng hơn 1500 tác phẩm, trong đó có 9 giao hưởng và hơn 600 ca khúc. Trên ngôi mộ của Su-be, tấm bia được nhà thơ vĩ đại người Áo là Glin-pac-xe đề tặng : “ Thần chết đặt tại đây một kho tàng quí báu, nhưng quí báu hơn là những hy vọng tươi đẹp của ông ” .( Câu chuyện trên kể dựa theo tư liệu cuộc sống Su-be và bộ phim Bản nhạc dang dở )

Source: https://vvc.vn
Category : Vượt Khó

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay