Quản lý dự án: phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em ở huyện Xín Mần và – Tài liệu text

Quản lý dự án: phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em ở huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì tỉnh Hà Giang (20072009)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.93 KB, 24 trang )

Dự án phát triển cộng đồng tập trung vào
trẻ em ở huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì
tỉnh Hà Giang (2007-2009).
I.

Đặt vấn đề:
Trong những năm qua, cùng với những
thành tựu to lớn về phát triển kinh tế – xã
hội, nước ta cũng đang phải đối mặt với
nhiều thách thức, trong đó vấn đề nghèo đói
luôn được quan tâm hàng đầu. Tăng trưởng
kinh tế một mặt đã góp phần cải thiện đáng
kể đời sống nhân dân, dẫn tới hình thành
những cộng đồng dân cư có thu nhập cao,
đời sống được bảo đảm bởi hệ thống cơ sở
vật chất và hạ tầng, các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe, y tế, giáo dục tương đối khá.
Người dân tại các cộng đồng này có nhiều
cơ hội phát triển, đựoc phát huy khả năng và
được bảo vệ thông qua mạng lưới an sinh xã
hội an toàn, bền vững. Tuy nhiên, sự phân
hóa ngay trong quá trình phát triển cũng làm
xuất hiện những cộng đồng dân cư nghèo,
các nhóm yếu thế tại vùng sâu, vùng xa, nơi
có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cùng

một bộ phận dân cư ngay trong lòng các đô
thị phát triển. Cộng đồng nghèo thường gắn
liền với các đặc điểm: Cơ sở hạ tầng, dịch
vụ xã hội thiếu hoặc yếu kém; kinh tế không

phát triển; nhu cầu cơ bản của người dân
chưa được đáp ứng đầy đủ; thiếu cơ hội tiếp
cận khoa học – kỹ thuật, tâm lý thiếu tự tin
hoặc trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước và
không được tham gia vào các quá trình ra
quyết định.
Chính vì vậy, việc giúp đỡ, phát triển các
cộng đồng nghèo là hết sức cần thiết và việc
lựa chọn các phương pháp phù hợp để phát
triển cộng đồng có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn to lớn.
Phát triển cộng đồng là một phương pháp
của công tác xã hội được xây dựng trên
những nguyên lý, nguyên tắc và giả định của
nhiều ngành khoa học xã hội khác như: Tâm
lý xã hội, xã hội học, chính trị học, nhân
chủng học…, được áp dụng ở nhiều nước và
đã phát huy vai trò trong việc giải quyết các
vấn đề của các nhóm cộng đồng nghèo, các
nhóm yếu thế trong thời gian qua. Đó là

phương pháp giải quyết một số vấn đề khó
khăn, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng,
hướng tới sự phát triển không ngừng về đời
sống vật chất và tinh thần của người dân
thông qua việc nâng cao năng lực, tăng
cường sự tham gia, đoàn kết, phối hợp chặt
chẽ giữa người dân với nhau, giữa người
dân với các tổ chức và giữa các tổ chức với

nhau trong phạm vi một cộng đồng. Chính
vì vậy nhóm chúng em đã chọn làm về dự
án: “phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ
em ở huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì tỉnh
Hà Giang (2007-2009). ”

2)

Giới thiệu về tỉnh hà giang

a)

Khái quát chung về tỉnh hà giang

Hà Giang là một tỉnh miền núi với 10
huyện và 1 thị xã nằm ở phía Bắc Việt
Nam. Hà Giang có 195 xã, phường và thị
trấn, trong đó có 114 xã thuộc chương
trình 135. Tổng diện tích tự nhiên là
7.923,21km2, có trên 274 km đường biên
giới với tiếp giáp với Trung Quốc. Dân số
Hà Giang là 684.618 người với 133.079 hộ
(Nguồn: Niên giám thống kê Tỉnh Hà
Giang-2006), có 22 dân tộc, trong đó
nhiều nhất là người H’Mong (208,571
người chiếm 31%), tiếp đó là người Tày
(171,112 người chiếm 22%), Dao (102,112
người), Nùng (66,335 người). Người Kinh
980,929 người, chiếm 11,8%.

Hà Giang có địa hình rất phức tạp, trong
đó núi và rừng chiếm tới 80% diện tích. Tỷ

lệ hộ nghèo là 43,7%, thu nhập bình quân
năm đạt 3,2 triệu đồng, bình quân lương
thực là 365kg/người. Thu ngân sách tại
địa bàn chỉ đáp ứng được 10% nhiệm vụ
chi. Nhiệm vụ chi 1.859 tỷ đồng và đạt gần
10% GDP theo giá hiện hành. Do đó, Hà
Giang luôn phải nhận hỗ trợ hàng năm từ
Nhà nước hơn 1.600 tỷ VND.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở mức
khá cao: 25,5%. Tỷ lệ đăng ký khai sinh đạt
hơn 70% (năm 2006) và 30% (năm 2004
trở về trước).
Hiện nay, Hà Giang được xếp là tỉnh nghèo
thứ 3 của Việt Nam (sau tỉnh Bắc Kạn và
Đăk Nông). Trong thời gian tới, Hà Giang
vẫn còn tiếp tục phải đối mặt với nhiều
vấn đề khó khăn. Trong đó có những vấn
đề cụ thể sau có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của trẻ em.

Thu nhập thấp: Hiện nay, Với mức thu
nhập trung bình toàn tỉnh là 3,2
triệu/người/năm, các hộ gia đình có kinh
tế khá giả tập trung chủ yếu ở các thị trấn.
Trong khi đó, thu nhập bình quân của

người nông dân tại địa phương, đặc biệt
tại các khu vực xa xôi, hẻo lánh rất thấp
(2,5-2,6 triệu/người/năm). Trung bình mỗi
ngày, một người dân làm ra được 7,000đ
để trang trải cho tất cả các chi tiêu. Mức
thu nhập này chỉ bằng một nửa so với
mức nghèo của thế giới
(1USD/người/ngày). Do vậy, người dân
không có đủ điều kiện để tiếp cận với các
nhu cầu cơ bản bao gồm: lương thực,
quần áo, đồ dùng sinh hoạt, chi trả khám
chữa bệnh, học tập cho con em. Trẻ em
vẫn đang phải chịu nhiều thiếu thốn về
lương thực và quần áo, đặc biệt là vào
mùa đông.

Chất lượng giáo dục Mầm non thấp: Hầu
hết các thôn bản đều không có lớp học
kiên cố cho bậc học mầm non. Các trang
thiết bị và đồ chơi cần thiết cho giáo viên
giảng dạy và trẻ học đều thiếu. Đặc biệt,
tất cả các trường mầm non, bao gồm cả
trường đã được xây dựng kiên cố lẫn các
lớp học tạm, đều không có nhà vệ sinh và
hệ thống nước sạch. Do đó, tỷ lệ đến lớp
trung bình của toàn tỉnh chỉ đạt 15 % đối
với trẻ dưới 3 tuổi, 75% đối với trẻ từ 3-5
tuổi. Đây là một tỷ lệ rất thấp nếu so sánh
với tỷ lệ bình quân của toàn quốc. Đáng

lưu ý trong đó, một vài xã vùng xã, tỷ lệ ra
lớp của trẻ dưới 3 tuổi chỉ đạt dưới 5% .
Chất lượng Giáo dục cơ bản thấp: Phần
lớn các xã, bao gồm cả các xã vùng xa đều
có trường học cho 2 cấp. Tỷ lệ đến lớp của
tiểu học đạt 98%. Tuy nhiên, nhiều khó

khăn vẫn còn tồn tại cho cả giáo viên và
học sinh trong việc nâng cao chất lượng
học. Mặc dù nhiều xã đã có trường cho cả
hai cấp học, nhưng chỉ có 78,3% trẻ đến
trường đúng độ tuổi. Bàn ghế cho trẻ đều
không đúng với tiêu chuẩn do Bộ GDĐT
quy định. Đa phần các trường đều không
có nhà vệ sinh, hệ thống nước sạch. Các
phòng chức năng và thư viện đều nằm
ngoài khả năng của nhà trường. Do vậy
chất lượng dạy và học rất thấp. Theo
thống kê mới nhất của Sở Giáo dục, tỷ lệ
tốt nghiệp THPT của Hà Giang đạt dưới
53% (2007).
Bỏ học là một vấn đề đáng quan ngại đối
với bậc THCS, có nhiều nguyên nhân dẫn
đến trẻ bỏ học (trường xa, điều kiện kinh
tế khó khăn, không có khả năng học…). Ít
nhất có 20% trẻ, sau khi tốt nghiệp Tiểu

học không tiếp tục học THCS. Thêm vào

đó, tỷ lệ học sinh bỏ học giữa chừng cao
(10-15%), đặc biệt là vào thời gian thu
hoạch nông nghiệp, trẻ phải ở nhà để giúp
đỡ cha mẹ hoặc là mùa đông quá lạnh.
Người nông dân, trong đó bao gồm trẻ em
và những người nghèo không có điều kiện
tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh tốt:
Chỉ có 55% trạm y tế xã có bác sỹ, 72% các
trạm được xây dựng kiên cố. Trong tổng số
133,079 hộ gia đình, chỉ có 31.957 hộ có
bể chứa nước. Gần 50% hộ sử dụng nước.
Những con số này cho thấy điều kiện y tế
của Hà Giang nói chung còn rất nhiều khó
khăn. Tại cấp xã, những khó khăn này lớn
hơn rất nhiều. Phần lớn các trạm y tế xã
đều thiếu các trang thiết bị cần thiết, các
cán bộ của trạm ít có cơ hội để tham gia
các lớp tập huấn chuyên sâu và cập nhật

các thông tin liên quan đến tình hình sức
khoẻ của địa phương. Tất các các nhân
viên y tế thôn bản đều không phải là
những người được đào tạo chuyên
nghiệp. Họ trở thành nhân viên y tế sau
khi tham gia một khoá tập huấn dài 3
tháng. Do vậy, chất lượng các dịch vụ y tế
cho người dân, đặc biệt là cho trẻ em và
phụ nữ còn thấp. Tỷ lệ sinh con tại trạm y
tế chỉ đạt dưới 10% (đối với các xã hẻo

lánh). Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em là
25%. Ngoại trừ ở khu vực thị trấn, các hộ
gia đình và thậm chí các trường học được
xây dựng kiên cố (Tiểu học và THCS) tại
các xã đều không có nhà vệ sinh.
Trẻ em không có cơ hội được vui chơi tại
gia đình và cộng đồng
b) Giới thiệu về hai huyện Xín Mần và
Hoàng Su Phì

Xín Mần và Hoàng Su Phì nằm ở phía Tây
của tỉnh. Đây là 2 trong những huyện
nghèo nhất của Hà Giang. Trong tổng số
114 xã của 11 huyện, thị nhận hỗ trợ của
chương trình 135, hai huyện Xín Mần và
Hoàng Su Phì chiếm 29,5% (34 xã). Ngân
sách thu của địa bàn chỉ đạt khoảng 5% so
với nhiệm vụ chi của địa phương. Tỷ lệ
nghèo của huyện Xín Mần là 60% và huyện
Hoàng Su Phì là 58%. Người dân tộc trên
toàn tỉnh chiếm 88,2% trong đó Xín Mần
là 98,4%, Hoàng Su Phì là 96,9%.
Xín Mần và Hoàng Su Phì là hai huyện có
điều kiện đi lại khó khăn nhất, do địa hình
đồi núi đất nhiều, kết cấu đất không bền
vững và có nguy cơ sạt lở đất. Mặc dù đã
có đường nhựa, nhưng giao thông đi lại từ
hai huyện ra Quốc lộ 2 và trung tâm tỉnh
gặp nhiều khó khăn, nhất là vào mùa mưa

do bị sạt lở đất. Đây là một sức ép lớn cho
sự phát triển kinh tế xã hội của địa
phương.
Tỷ lệ trẻ đi học của trẻ em ở độ tuổi dưới
3 và từ 3-5 tuổi thấp. Tỷ lệ ra lớp trung
bình của trẻ dưới 3 tuổi toàn tỉnh đạt
12,3%, con số này ở hai huyện thấp hơn
rất nhiều, khoảng 6-7%.
Vấn đề học sinh bỏ học ở cấp tiểu học và
trung học cở sở là một khó khăn lớn cho
sự phát triển và nâng cao chất lượng giáo
dục. Theo thống kê không đầy đủ của
Phòng Giáo dục Huyện, tỷ lệ trẻ đang đi
học bỏ học khoảng 15-20%.
Thông qua các hoạt động (Đánh giá nông
thôn có sự tham gia của người dân) được
triển khai tại 6 xã (Pố Lồ, Tụ Nhân, Tân
Tiến – huyện Hoàng Su Phì; Tả Nhìu, Nàn
Ma và Nấm Dẩn – huyện Xín Mần) và việc

thu thập các số liệu thứ cấp, hiện trạng
kinh tế xã hội 6 xã này đang phải đối mặt
với các vấn đề mà tỉnh và hai huyện đang
gặp phải nhưng ở các mức độ khác nhau.
6 xã được xem như là những bức
tranh thu nhỏ của tỉnh Hà Giang.

Khó khăn trong các chương
trình khám chữa bệnh.

Bất
đồng
ngôn
ngữ.

Tính
đoàn kết
giữa các
hộ bị
giảm
thiểu.

Đường xá
đi lại khó
khăn,
hiểm trở.

Trẻ em không có
cơ hội vui chơi tại
cộng đồn.
Trẻ em phải làm việc
từ sáng đến tối.

Nâng cao sức khỏe cộng đồng tập trung vào trẻ
em thông qua dự án.

Chương
trình
đào tạo
còn
nhiều
mặt hạn
chế.

Địa hình
rừng
núi
hiểm
trở.

80% diện tích là rừng
núi.

Điều
kiện tự
nhiên
tác
động.

Dân cư
thưa
thớt.

CÂY
VẤN
ĐỀ

Là những
tỉnh
nghèo
nhất Việt
Nam.

Kết cấu đất không bền vững, có
nguy cơ sạt lở.

CÂY MỤC
TIÊU
Trẻ em (từ 0-6
tuổi) được chăm
sóc và phát triển
từ nhỏ, (từ 6-15
tuổi) được phát
triển và duy trì
năng lực học tập.

Trẻ em được sống trong môi trường
khoẻ mạnh, bền vững về số lượng, chất
lượng và có thói quen vệ sinh có lợi cho
sức khoẻ.

Được ra quyết
định có ảnh
hưởng đến cuộc
sống của họ và ý

kiến của họ
được lắng nghe.

Sức khoẻ sinh sản phụ nữ
trong độ tuổi sinh đẻ được
cải thiện và phát triển,
được bảo vệ khỏi những
rủi ro đe doạ tới sức khoẻ.

Nâng cao sức khỏe cộng đồng tập trung vào trẻ
em thông qua dự án.

Trẻ em thực
hiện quyền
được sống
trong một môi
trường an
toàn mọi nơi.

Chất lượng giáo
dục được cải
thiện.

Trẻ em cần sự
bảo vệ đặc biệt,
nhất là các em
thuộc gia đình di
cư.

Cơ sở hạ

tầng nhận
thức trong
y tế.

Mục
Tiêu

Giải Pháp

Trẻ em
thực hiện
quyền
được
sống
trong một
môi
trường an
toàn mọi
nơi.

-Thuyết phục gia đình cho
các em đến khu vui chơi
giải trí, tham gia sinh hoạt
tập thể, được giao lưu
học hỏi lẫn nhau thì cán
bộ phải mất nhiều thời
gian giải thích cho bà con
hiểu lợi ích của việc sinh
hoạt vui chơi giải trí giúp

con em mình có sức
khỏe, có trí tuệ….
– Tuyên truyền về việc làm
giấy khai sinh, chống
buôn bán trẻ em qua biên
giới cùng các chiến dịch
của nhà nước.
– Chăm sóc: đảm bảo nhu
cầu tối thiểu của các em,
cung cấp các loại đồ chơi
đơn giản và có thời gian
sử dụng bền để các em
giải trí.

Ghi Chú
– Làm việc từ sáng
đến tối mà vẫn
không đủ ăn, đủ
mặc thì thời gian
đâu giành cho vui
chơi giải trí, phát
triển tinh thần, thể
chất.

Trẻ em
cần sự
bảo vệ
đặc biệt,
nhất là

các em
thuộc gia
đình di
cư.

– Phối hợp chặt chẽ của
các cấp chính quyền và
cộng đồng địa phương.
Chính vì vậy mà các dự án
được triển khai thuận lợi,
đạt hiệu quả và mang
tính bền vững cao.
-Vì điều kiện kinh tế còn
khó khăn nên việc thuyết
phục bố mẹ cho con em
mình được đi học vui
chơi là điểu không dễ
dàng bởi thế các cán bộ
phải thường xuyên thăm
nom, giúp đỡ người dân
nơi đây, thuyết phục họ
để họ hiểu cho các em
học tập là để tương lại
các em có thể tốt hơn
mình.

-Trình độ nhận
thức của người dân
tại các địa phương
này còn nhiều hạn

chế nên việc giúp
họ hòa nhập và nói
lên được tiếng nói
riêng của mình gặp
không ít khó khăn.

Chất
lượng
giáo dục
được cải
thiện.

-Hỗ trợ trang thiết bị làm
bếp ăn để các cháu có thể
ăn trưa tại trường.
-Nâng cao nhận thức của
cha mẹ học sinh qua việc
phổ biến đến từng hộ gia
đình
-Xây dựng cơ sở hạ tầng,
trang thiết bị phục vụ cho
việc dạy và học của học
sinh: trường học có nhà
vệ sinh,có hệ thống nước
sạch,có các phòng chức
năng,có thư viện cho các
em có thể đọc sách .
-Nâng cao chất lượng dạy
học cho học sinh.

-Tạo động lực để các em
không bỏ học giữa chừng
bằng việc chăm lo cho
cuộc sống của gia đình các
em.
-Trẻ em (từ 6-15 tuổi)
thực hiện quyền phát
triển và duy trì năng lực
học tập cơ bản nhờ điều
kiện giáo dục có chất

-Lao động vất vẩ cả
ngày đến cơm còn
chẳng đủ ăn, áo
không đủ mặc thì
thời gian đâu mà đi
học – đó là suy nghĩ
của người dân. Vì
thế để thuyết phục
người dân cho con
em họ đến lớp là vô
cùng khó khăn. Đòi
hỏi phải thuyết phục
lâu dài dần dần.
-Mất rất nhiều thời
gian mới thuyết
phục được họ cho
con em mình tới
trường thì chỉ được
một thời gian ngắn

sau đó trẻ lại bỏ học
vì nhiều lý do( ở nhà
lao động, trông
em…) vì thế cán bộ
thường xuyên thăm
nom, thuyết phục
gia đình, động viên
các em đến lớp đầy

Cơ sở hạ
tầng
nhận thức
trong y tế.

-Tăng cường dịch vụ y tế
tại cấp thôn. Tổ chức các
chương trình khám chữa
bệnh miễn phí, nâng cao
cơ sở y tế: xây dựng các
trạm y tế kiên cố ,vững
chắc;bổ sung nguồn lực là
các bác sĩ và y tá.
-Loại bỏ những hủ tục lạc
hậu, chữa bệnh không
khoa học.
-Phổ biến tới các bậc cha
mẹ cho con đi khám để có
thể phòng tránh,phát hiện
và chữa trị kịp thời đối với

các loại bệnh.

Hà Giang là một tỉnh
tập trung nhiều dân
tộc thiểu số, trình
độ dân trí thấp, có
nhiều hủ tục mê tín
dị đoan, vì thế khi
đưa ra các chương
trình nâng cao sức
khỏe cộng đồng thì
cũng gặp một số khó
khăn nhất định.
Người dân luôn tin
vào thầy cúng, ai ốm
đau, bệnh tật gì thì
cứ mời thầy cúng về
đuổi tà ma. Cán bộ
phát triển cộng
đồng phải mất rất
nhiều thời gian để
trình bày, giải thích
cho người dân hiếu
về khoa học ký
thuật, khám chữa
bệnh bằng thuốc.
Tuy nhiên số lượng
trạm y tế còn ít,

trang thiết bị còn
nghèo nàn, đội ngũ
y bác sỹ với trình độ
chuyên môn còn
hạn chế nên người
dân chưa thực sự
tin tưởng

II.

CHI PHÍ VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA DỰ ÁN:

Chương trình là sự hợp tác lâu dài giữa tổ chức Dự
án Việt Nam và tỉnh Hà Giang vì vậy, nó sẽ có
những đóng góp đáng kể, quan trọng trong việc
xóa đói và giảm nghèo tại hai Huyện Hoàng Su
Phì, Xín Mần nói riêng và tỉnh Hà Giang nói
chung.

Đặc biệt chương trình hỗ trợ tối đa để trẻ em có
thể phát huy mọi tiềm năng của mình cũng như
nâng cao đáng kể điều kiện sống của các em.
Số trẻ được bảo trợ: Năm 2008 có 1.350 trẻ được
Bảo trợ (năm đầu tiên). Số lượng này sẽ được tăng
hàng năm thêm 1.000 trẻ.
Khi mới bắt đầu dự án 2 huyện Hoàng Su Phì và
Xín Mần có tỉ lệ ra lớp của trẻ dưới 3 tuổi là dưới
5%,
Nắm bắt rõ thực trạng này, giáo dục mầm non đã

trở thành một mảng quan trọng trong dự án của Dự
án tại Hà Giang. Thông qua ban điều hành các xã,
các tổ chức triển khai thực hiện công tác đầu tư
xây dựng, mua sắm trang thiết bị dạy và học. Qua
Phòng giáo dục và Đào tạo triển khai các hoạt
động tập huấn giáo viên, tổ chức các hoạt động
của cộng đồng.
Nói về hiệu quả của dự án mà dự án triển khai tại
Hà Giang: “Trong thời gian qua, Dự án đã hỗ trợ
xây dựng 2 trường mầm non ở trung tâm xã, 21
điểm trường lẻ với 48 phòng học, trang bị 55 bộ
đồ dùng đồ chơi phục vụ cho công tác dạy và học.
Quan tâm đến việc nâng cao năng lực giảng dạy,
dự án đã giúp tập huấn 13 chủ đề cho gần 3.000
lượt giáo viên. Bên cạnh đó, Dự án xây dựng và áp
dụng thực hiện bộ tài liệu hỗ trợ như bộ tranh dân

gian của người Dao và người H’Mông, thực hiện
chương trình giáo dục Mầm non mới. Tổ chức các
hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức cho
cộng đồng để chăm sóc trẻ em dưới nhiều hình
thức. Tổ chức các hội thi bé khỏe bé đọc thơ, kể
chuyện, ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường. Dự
án còn hỗ trợ cho các hoạt động nhóm tại cộng
đồng, giúp tổ chức 12 nhóm tre vui chơi, đọc sách
giúp trẻ nói tiếng Kinh tốt hơn, mạnh dạn hơn
trong quá trình giao tiếp, thành lập các nhóm cha
mẹ giúp đỡ, chia sẻ với nhau kinh nghiệm chăm
sóc trẻ thơ. Năng lực nguồn nhân lực ở cấp thôn

cấp xã được nâng cao rõ rệt. tất cả các cô giáo từ
mầm non đến tiểu học đều được tập huấn từ
chuyên môn đến phương pháp giảng dạy, giáo
viên trường cấp 2 và các cán bộ đoàn thể đều được
tham gia các khóa tập huấn từ đó áp dụng vào quá
trình triển khai công việc không những của dự án
mà của cả chính phủ, Dự án có sự lồng ghép rất
chặt chẽ giữa các hoạt động của Dự án và của
chính quyền Hà Giang.
Tổng kinh phí tổ chức Dự án đầu tư thời gian qua
tại Hoàng Su Phì và Xín Mần là gần 18 tỉ đồng, 2
huyện Yên Minh và Mèo Vạc gần 3 tỉ đồng”.
Sau 5 năm, hiệu quả các dự án đã tương đối rõ.
Thứ nhất Đến nay tỉ lệ ra lớp của trẻ dưới 3 tuổi
đạt tỉ lệ đạt 35% tăng gấp 7 lần so với khi chưa

thực hiện dự ấn. Thứ hai, trẻ em tham gia các hoạt
động, được trao đổi nhiều nên trở nên tự tin hơn.
Thứ ba, hệ thống cán bộ cấp thôn, xã sau quá trình
làm việc với Dự án đã biết cách lên kế hoạch,
giám sát hiện trường và huy động sự tham gia của
cộng đồng trong các hoạt động. Thứ tư, các công
trình của Dự án xây dựng đã mang hiệu quả cung
cấp cơ sở vật chất cho địa phương; thông qua đó
Dự án tuyên truyền về vấn đề vệ sinh nước sạch
môi trường cho mọi người.
III.

Kết luận:

Dự án sẽ hỗ trợ tối đa để trẻ em có thể phát huy
mọi tiềm năng của mình cũng như nâng cao đáng
kể điều kiện sống cho các em. Đặc biệt là:

Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng để bà con dân
tộc đi lại,sinh hoạt dễ dàng, thuận tiện hơn.
Đẩy mạnh tuyên truyền về quyền của trẻ em, để
trẻ em được bảo vệ hơn nữa, để họ hiểu con em
của họ cũng có quyền học tập, vui chơi như bao
đứa trẻ khác, dù điều kiện có khăn nhưng vì
tương lai của những đứa trẻ nơi đây thì đó là
điều cần thiết.
Khuyến khích người dân chủ động nói ra sự khó
khăn và đề nghị hỗ trợ.

Nâng cao ý thức của người dân và bài trừ hủ tục
lạc hậu.

phát triển ; nhu yếu cơ bản của người dânchưa được phân phối vừa đủ ; thiếu thời cơ tiếpcận khoa học – kỹ thuật, tâm ý thiếu tự tinhoặc trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước vàkhông được tham gia vào những quy trình raquyết định. Chính thế cho nên, việc giúp sức, phát triển cáccộng đồng nghèo là rất là thiết yếu và việclựa chọn những chiêu thức tương thích để pháttriển cộng đồng có ý nghĩa khoa học và thựctiễn to lớn. Phát triển cộng đồng là một phương phápcủa công tác làm việc xã hội được kiến thiết xây dựng trênnhững nguyên tắc, nguyên tắc và giả định củanhiều ngành khoa học xã hội khác như : Tâmlý xã hội, xã hội học, chính trị học, nhânchủng học …, được vận dụng ở nhiều nước vàđã phát huy vai trò trong việc xử lý cácvấn đề của những nhóm cộng đồng nghèo, cácnhóm yếu thế trong thời hạn qua. Đó làphương pháp xử lý một số ít yếu tố khókhăn, cung ứng nhu yếu của cộng đồng, hướng tới sự phát triển không ngừng về đờisống vật chất và ý thức của người dânthông qua việc nâng cao năng lượng, tăngcường sự tham gia, đoàn kết, phối hợp chặtchẽ giữa người dân với nhau, giữa ngườidân với những tổ chức triển khai và giữa những tổ chức triển khai vớinhau trong khoanh vùng phạm vi một cộng đồng. Chínhvì vậy nhóm chúng em đã chọn làm về dựán : “ phát triển cộng đồng tập trung vào trẻem ở huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì tỉnhHà Giang ( 2007 – 2009 ). ” 2 ) Giới thiệu về tỉnh hà gianga ) Khái quát chung về tỉnh hà giangHà Giang là một tỉnh miền núi với 10 huyện và 1 thị xã nằm ở phía Bắc ViệtNam. Hà Giang có 195 xã, phường và thịtrấn, trong đó có 114 xã thuộc chươngtrình 135. Tổng diện tích tự nhiên là7. 923,21 km2, có trên 274 km đường biêngiới với tiếp giáp với Trung Quốc. Dân sốHà Giang là 684.618 người với 133.079 hộ ( Nguồn : Niên giám thống kê Tỉnh HàGiang-2006 ), có 22 dân tộc bản địa, trong đónhiều nhất là người H’Mong ( 208,571 người chiếm 31 % ), tiếp đó là người Tày ( 171,112 người chiếm 22 % ), Dao ( 102,112 người ), Nùng ( 66,335 người ). Người Kinh980, 929 người, chiếm 11,8 %. Hà Giang có địa hình rất phức tạp, trongđó núi và rừng chiếm tới 80 % diện tích quy hoạnh. Tỷlệ hộ nghèo là 43,7 %, thu nhập bình quânnăm đạt 3,2 triệu đồng, trung bình lươngthực là 365 kg / người. Thu ngân sách tạiđịa bàn chỉ cung ứng được 10 % nhiệm vụchi. Nhiệm vụ chi 1.859 tỷ đồng và đạt gần10 % GDP theo giá hiện hành. Do đó, HàGiang luôn phải nhận tương hỗ hàng năm từNhà nước hơn 1.600 tỷ VND.Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em ở mứckhá cao : 25,5 %. Tỷ lệ ĐK khai sinh đạthơn 70 % ( năm 2006 ) và 30 % ( năm 2004 trở lại trước ). Hiện nay, Hà Giang được xếp là tỉnh nghèothứ 3 của Nước Ta ( sau tỉnh Bắc Kạn vàĐăk Nông ). Trong thời hạn tới, Hà Giangvẫn còn liên tục phải đương đầu với nhiềuvấn đề khó khăn vất vả. Trong đó có những vấnđề đơn cử sau có ảnh hưởng tác động rất lớn đến sựphát triển của trẻ em. Thu nhập thấp : Hiện nay, Với mức thunhập trung bình toàn tỉnh là 3,2 triệu / người / năm, những hộ mái ấm gia đình có kinhtế khá giả tập trung đa phần ở những thị xã. Trong khi đó, thu nhập trung bình củangười nông dân tại địa phương, đặc biệttại những khu vực xa xôi, hẻo lánh rất thấp ( 2,5 – 2,6 triệu / người / năm ). Trung bình mỗingày, một người dân làm ra được 7,000 đđể giàn trải cho tổng thể những tiêu tốn. Mứcthu nhập này chỉ bằng 50% so vớimức nghèo của quốc tế ( 1USD / người / ngày ). Do vậy, người dânkhông có đủ điều kiện kèm theo để tiếp cận với cácnhu cầu cơ bản gồm có : lương thực, quần áo, vật dụng hoạt động và sinh hoạt, chi trả khámchữa bệnh, học tập cho con trẻ. Trẻ emvẫn đang phải chịu nhiều thiếu thốn vềlương thực và quần áo, đặc biệt quan trọng là vàomùa đông. Chất lượng giáo dục Mầm non thấp : Hầuhết những thôn bản đều không có lớp họckiên cố cho bậc học mần nin thiếu nhi. Các trangthiết bị và đồ chơi thiết yếu cho giáo viêngiảng dạy và trẻ học đều thiếu. Đặc biệt, tổng thể những trường mần nin thiếu nhi, gồm có cảtrường đã được thiết kế xây dựng bền vững và kiên cố lẫn cáclớp học tạm, đều không có Tolet vàhệ thống nước sạch. Do đó, tỷ suất đến lớptrung bình của toàn tỉnh chỉ đạt 15 % đốivới trẻ dưới 3 tuổi, 75 % so với trẻ từ 3-5 tuổi. Đây là một tỷ suất rất thấp nếu so sánhvới tỷ suất trung bình của toàn nước. Đánglưu ý trong đó, một vài xã vùng xã, tỷ suất ralớp của trẻ dưới 3 tuổi chỉ đạt dưới 5 %. Chất lượng Giáo dục đào tạo cơ bản thấp : Phầnlớn những xã, gồm có cả những xã vùng xa đềucó trường học cho 2 cấp. Tỷ lệ đến lớp củatiểu học đạt 98 %. Tuy nhiên, nhiều khókhăn vẫn còn sống sót cho cả giáo viên vàhọc sinh trong việc nâng cao chất lượnghọc. Mặc dù nhiều xã đã có trường cho cảhai cấp học, nhưng chỉ có 78,3 % trẻ đếntrường đúng độ tuổi. Bàn ghế cho trẻ đềukhông đúng với tiêu chuẩn do Bộ GDĐTquy định. Đa phần những trường đều khôngcó Tolet, mạng lưới hệ thống nước sạch. Cácphòng công dụng và thư viện đều nằmngoài năng lực của nhà trường. Do vậychất lượng dạy và học rất thấp. Theothống kê mới nhất của Sở Giáo dục đào tạo, tỷ lệtốt nghiệp trung học phổ thông của Hà Giang đạt dưới53 % ( 2007 ). Bỏ học là một yếu tố đáng quan ngại đốivới bậc trung học cơ sở, có nhiều nguyên do dẫnđến trẻ bỏ học ( trường xa, điều kiện kèm theo kinhtế khó khăn vất vả, không có khả năng học … ). Ítnhất có 20 % trẻ, sau khi tốt nghiệp Tiểuhọc không liên tục học THCS. Thêm vàođó, tỷ suất học viên bỏ học giữa chừng cao ( 10-15 % ), đặc biệt quan trọng là vào thời hạn thuhoạch nông nghiệp, trẻ phải ở nhà để giúpđỡ cha mẹ hoặc là mùa đông quá lạnh. Người nông dân, trong đó gồm có trẻ emvà những người nghèo không có điều kiệntiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh tốt : Chỉ có 55 % trạm y tế xã có bác sỹ, 72 % cáctrạm được thiết kế xây dựng bền vững và kiên cố. Trong tổng số133, 079 hộ mái ấm gia đình, chỉ có 31.957 hộ cóbể chứa nước. Gần 50 % hộ sử dụng nước. Những số lượng này cho thấy điều kiện kèm theo y tếcủa Hà Giang nói chung còn rất nhiều khókhăn. Tại cấp xã, những khó khăn vất vả này lớnhơn rất nhiều. Phần lớn những trạm y tế xãđều thiếu những trang thiết bị thiết yếu, cáccán bộ của trạm ít có thời cơ để tham giacác lớp tập huấn sâu xa và cập nhậtcác thông tin tương quan đến tình hình sứckhoẻ của địa phương. Tất những những nhânviên y tế thôn bản đều không phải lànhững người được đào tạo và giảng dạy chuyênnghiệp. Họ trở thành nhân viên cấp dưới y tế saukhi tham gia một khoá tập huấn dài 3 tháng. Do vậy, chất lượng những dịch vụ y tếcho người dân, đặc biệt quan trọng là cho trẻ em vàphụ nữ còn thấp. Tỷ lệ sinh con tại trạm ytế chỉ đạt dưới 10 % ( so với những xã hẻolánh ). Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em là25 %. Ngoại trừ ở khu vực thị xã, những hộgia đình và thậm chí còn những trường học đượcxây dựng bền vững và kiên cố ( Tiểu học và trung học cơ sở ) tạicác xã đều không có Tolet. Trẻ em không có thời cơ được đi dạo tạigia đình và cộng đồngb ) Giới thiệu về hai huyện Xín Mần vàHoàng Su PhìXín Mần và Hoàng Su Phì nằm ở phía Tâycủa tỉnh. Đây là 2 trong những huyệnnghèo nhất của Hà Giang. Trong tổng số114 xã của 11 huyện, thị nhận tương hỗ củachương trình 135, hai huyện Xín Mần vàHoàng Su Phì chiếm 29,5 % ( 34 xã ). Ngânsách thu của địa phận chỉ đạt khoảng chừng 5 % sovới trách nhiệm chi của địa phương. Tỷ lệnghèo của huyện Xín Mần là 60 % và huyệnHoàng Su Phì là 58 %. Người dân tộc bản địa trêntoàn tỉnh chiếm 88,2 % trong đó Xín Mầnlà 98,4 %, Hoàng Su Phì là 96,9 %. Xín Mần và Hoàng Su Phì là hai huyện cóđiều kiện đi lại khó khăn vất vả nhất, do địa hìnhđồi núi đất nhiều, cấu trúc đất không bềnvững và có rủi ro tiềm ẩn sụt lún đất. Mặc dù đãcó đường nhựa, nhưng giao thông vận tải đi lại từhai huyện ra Quốc lộ 2 và TT tỉnhgặp nhiều khó khăn vất vả, nhất là vào mùa mưado bị sụt lún đất. Đây là một sức ép lớn chosự phát triển kinh tế tài chính xã hội của địaphương. Tỷ lệ trẻ đi học của trẻ em ở độ tuổi dưới3 và từ 3-5 tuổi thấp. Tỷ lệ ra lớp trungbình của trẻ dưới 3 tuổi toàn tỉnh đạt12, 3 %, số lượng này ở hai huyện thấp hơnrất nhiều, khoảng chừng 6-7 %. Vấn đề học viên bỏ học ở cấp tiểu học vàtrung học cở sở là một khó khăn vất vả lớn chosự phát triển và nâng cao chất lượng giáodục. Theo thống kê không không thiếu củaPhòng Giáo dục đào tạo Huyện, tỷ suất trẻ đang đihọc bỏ học khoảng chừng 15-20 %. Thông qua những hoạt động giải trí ( Đánh giá nôngthôn có sự tham gia của dân cư ) đượctriển khai tại 6 xã ( Pố Lồ, Tụ Nhân, TânTiến – huyện Hoàng Su Phì ; Tả Nhìu, NànMa và Nấm Dẩn – huyện Xín Mần ) và việcthu thập những số liệu thứ cấp, hiện trạngkinh tế xã hội 6 xã này đang phải đối mặtvới những yếu tố mà tỉnh và hai huyện đanggặp phải nhưng ở những mức độ khác nhau. 6 xã được xem như thể những bứctranh thu nhỏ của tỉnh Hà Giang. Khó khăn trong những chươngtrình khám chữa bệnh. Bấtđồngngônngữ. Tínhđoàn kếtgiữa cáchộ bịgiảmthiểu. Đường xáđi lại khókhăn, hiểm trở. Trẻ em không cócơ hội đi dạo tạicộng đồn. Trẻ em phải làm việctừ sáng đến tối. Nâng cao sức khỏe thể chất cộng đồng tập trung vào trẻem trải qua dự án Bất Động Sản. Chươngtrìnhđào tạocònnhiềumặt hạnchế. Địa hìnhrừngnúihiểmtrở. 80 % diện tích quy hoạnh là rừngnúi. Điềukiện tựnhiêntácđộng. Dân cưthưathớt. CÂYVẤNĐỀLà nhữngtỉnhnghèonhất ViệtNam. Kết cấu đất không bền vững và kiên cố, cónguy cơ sụt lún. CÂY MỤCTIÊUTrẻ em ( từ 0-6 tuổi ) được chămsóc và phát triểntừ nhỏ, ( từ 6-15 tuổi ) được pháttriển và duy trìnăng lực học tập. Trẻ em được sống trong môi trườngkhoẻ mạnh, vững chắc về số lượng, chấtlượng và có thói quen vệ sinh có lợi chosức khoẻ. Được ra quyếtđịnh có ảnhhưởng đến cuộcsống của họ và ýkiến của họđược lắng nghe. Sức khoẻ sinh sản phụ nữtrong độ tuổi sinh đẻ đượccải thiện và phát triển, được bảo vệ khỏi nhữngrủi ro đe doạ tới sức khoẻ. Nâng cao sức khỏe thể chất cộng đồng tập trung vào trẻem trải qua dự án Bất Động Sản. Trẻ em thựchiện quyềnđược sốngtrong một môitrường antoàn mọi nơi. Chất lượng giáodục được cảithiện. Trẻ em cần sựbảo vệ đặc biệt quan trọng, nhất là những emthuộc mái ấm gia đình dicư. Cơ sở hạtầng nhậnthức trongy tế. MụcTiêuGiải PhápTrẻ emthực hiệnquyềnđượcsốngtrong mộtmôitrường antoàn mọinơi. – Thuyết phục mái ấm gia đình chocác em đến khu vui chơigiải trí, tham gia sinh hoạttập thể, được giao lưuhọc hỏi lẫn nhau thì cánbộ phải mất nhiều thờigian lý giải cho bà conhiểu quyền lợi của việc sinhhoạt đi dạo vui chơi giúpcon em mình có sứckhỏe, có trí tuệ …. – Tuyên truyền về việc làmgiấy khai sinh, chốngbuôn bán trẻ em qua biêngiới cùng những chiến dịchcủa nhà nước. – Chăm sóc : bảo vệ nhucầu tối thiểu của những em, phân phối những loại đồ chơiđơn giản và có thời giansử dụng bền để những emgiải trí. Ghi Chú – Làm việc từ sángđến tối mà vẫnkhông đủ ăn, đủmặc thì thời gianđâu giành cho vuichơi vui chơi, pháttriển niềm tin, thểchất. Trẻ emcần sựbảo vệđặc biệt, nhất làcác emthuộc giađình dicư. – Phối hợp ngặt nghèo củacác cấp chính quyền sở tại vàcộng đồng địa phương. Chính thế cho nên mà những dự ánđược tiến hành thuận tiện, đạt hiệu suất cao và mangtính bền vững và kiên cố cao. – Vì điều kiện kèm theo kinh tế tài chính cònkhó khăn nên việc thuyếtphục cha mẹ cho con emmình được đi học vuichơi là điểu không dễdàng bởi vậy những cán bộphải liên tục thămnom, trợ giúp người dânnơi đây, thuyết phục họđể họ hiểu cho những emhọc tập là để tương lạicác em hoàn toàn có thể tốt hơnmình. – Trình độ nhậnthức của người dântại những địa phươngnày còn nhiều hạnchế nên việc giúphọ hòa nhập và nóilên được tiếng nóiriêng của mình gặpkhông ít khó khăn vất vả. Chấtlượnggiáo dụcđược cảithiện. – Hỗ trợ trang thiết bị làmbếp ăn để những cháu có thểăn trưa tại trường. – Nâng cao nhận thức củacha mẹ học viên qua việcphổ biến đến từng hộ giađình-Xây dựng hạ tầng, trang thiết bị ship hàng choviệc dạy và học của họcsinh : trường học có nhàvệ sinh, có mạng lưới hệ thống nướcsạch, có những phòng chứcnăng, có thư viện cho cácem hoàn toàn có thể đọc sách. – Nâng cao chất lượng dạyhọc cho học viên. – Tạo động lực để những emkhông bỏ học giữa chừngbằng việc chăm sóc chocuộc sống của mái ấm gia đình cácem. – Trẻ em ( từ 6-15 tuổi ) triển khai quyền pháttriển và duy trì năng lựchọc tập cơ bản nhờ điềukiện giáo dục có chất-Lao động vất vẩ cảngày đến cơm cònchẳng đủ ăn, áokhông đủ mặc thìthời gian đâu mà đihọc – đó là suy nghĩcủa người dân. Vìthế để thuyết phụcngười dân cho conem họ đến lớp là vôcùng khó khăn vất vả. Đòihỏi phải thuyết phụclâu dài từ từ. – Mất rất nhiều thờigian mới thuyếtphục được họ chocon em mình tớitrường thì chỉ đượcmột thời hạn ngắnsau đó trẻ lại bỏ họcvì nhiều nguyên do ( ở nhàlao động, trôngem … ) do đó cán bộthường xuyên thămnom, thuyết phụcgia đình, động viêncác em đến lớp đầyCơ sở hạtầngnhận thứctrong y tế. – Tăng cường dịch vụ y tếtại cấp thôn. Tổ chức cácchương trình khám chữabệnh không tính tiền, nâng caocơ sở y tế : kiến thiết xây dựng cáctrạm y tế bền vững và kiên cố, vữngchắc ; bổ trợ nguồn lực làcác bác sĩ và y tá. – Loại bỏ những hủ tục lạchậu, chữa bệnh khôngkhoa học. – Phổ biến tới những bậc chamẹ cho con đi khám để cóthể phòng tránh, phát hiệnvà chữa trị kịp thời đối vớicác loại bệnh. Hà Giang là một tỉnhtập trung nhiều dântộc thiểu số, trìnhđộ dân trí thấp, cónhiều hủ tục mê tíndị đoan, cho nên vì thế khiđưa ra những chươngtrình nâng cao sứckhỏe cộng đồng thìcũng gặp 1 số ít khókhăn nhất định. Người dân luôn tinvào thầy cúng, ai ốmđau, bệnh tật gì thìcứ mời thầy cúng vềđuổi tà ma. Cán bộphát triển cộngđồng phải mất rấtnhiều thời hạn đểtrình bày, giải thíchcho người dân hiếuvề khoa học kýthuật, khám chữabệnh bằng thuốc. Tuy nhiên số lượngtrạm y tế còn ít, trang thiết bị cònnghèo nàn, đội ngũy bác sỹ với trình độchuyên môn cònhạn chế nên ngườidân chưa thực sựtin tưởngII. CHI PHÍ VÀ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA DỰ ÁN : Chương trình là sự hợp tác lâu bền hơn giữa tổ chức triển khai Dựán Nước Ta và tỉnh Hà Giang vì thế, nó sẽ cónhững góp phần đáng kể, quan trọng trong việcxóa đói và giảm nghèo tại hai Huyện Hoàng SuPhì, Xín Mần nói riêng và tỉnh Hà Giang nóichung. Đặc biệt chương trình tương hỗ tối đa để trẻ em cóthể phát huy mọi tiềm năng của mình cũng nhưnâng cao đáng kể điều kiện kèm theo sống của những em. Số trẻ được bảo trợ : Năm 2008 có 1.350 trẻ đượcBảo trợ ( năm tiên phong ). Số lượng này sẽ được tănghàng năm thêm 1.000 trẻ. Khi mới khởi đầu dự án Bất Động Sản 2 huyện Hoàng Su Phì vàXín Mần có tỉ lệ ra lớp của trẻ dưới 3 tuổi là dưới5 %, Nắm bắt rõ tình hình này, giáo dục mần nin thiếu nhi đãtrở thành một mảng quan trọng trong dự án Bất Động Sản của Dựán tại Hà Giang. Thông qua ban điều hành quản lý những xã, những tổ chức triển khai tiến hành thực thi công tác làm việc đầu tưxây dựng, shopping trang thiết bị dạy và học. QuaPhòng giáo dục và Đào tạo tiến hành những hoạtđộng tập huấn giáo viên, tổ chức triển khai những hoạt độngcủa cộng đồng. Nói về hiệu suất cao của dự án Bất Động Sản mà dự án Bất Động Sản tiến hành tạiHà Giang : “ Trong thời hạn qua, Dự án đã hỗ trợxây dựng 2 trường mần nin thiếu nhi ở TT xã, 21 điểm trường lẻ với 48 phòng học, trang bị 55 bộđồ dùng đồ chơi Giao hàng cho công tác làm việc dạy và học. Quan tâm đến việc nâng cao năng lượng giảng dạy, dự án Bất Động Sản đã giúp tập huấn 13 chủ đề cho gần 3.000 lượt giáo viên. Bên cạnh đó, Dự án thiết kế xây dựng và ápdụng triển khai bộ tài liệu tương hỗ như bộ tranh dângian của người Dao và người H’Mông, thực hiệnchương trình giáo dục Mầm non mới. Tổ chức cáchoạt động truyền thông online, nâng cao nhận thức chocộng đồng để chăm nom trẻ em dưới nhiều hìnhthức. Tổ chức những hội thi bé khỏe bé đọc thơ, kểchuyện, ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường. Dựán còn tương hỗ cho những hoạt động giải trí nhóm tại cộngđồng, giúp tổ chức triển khai 12 nhóm tre đi dạo, đọc sáchgiúp trẻ nói tiếng Kinh tốt hơn, mạnh dạn hơntrong quy trình tiếp xúc, xây dựng những nhóm chamẹ giúp sức, san sẻ với nhau kinh nghiệm tay nghề chămsóc trẻ thơ. Năng lực nguồn nhân lực ở cấp thôncấp xã được nâng cao rõ ràng. tổng thể những cô giáo từmầm non đến tiểu học đều được tập huấn từchuyên môn đến giải pháp giảng dạy, giáoviên trường cấp 2 và những cán bộ đoàn thể đều đượctham gia những khóa tập huấn từ đó vận dụng vào quátrình tiến hành việc làm không những của dự ánmà của cả chính phủ nước nhà, Dự án có sự lồng ghép rấtchặt chẽ giữa những hoạt động giải trí của Dự án và củachính quyền Hà Giang. Tổng kinh phí đầu tư tổ chức triển khai Dự án góp vốn đầu tư thời hạn quatại Hoàng Su Phì và Xín Mần là gần 18 tỉ đồng, 2 huyện Yên Minh và Mèo Vạc gần 3 tỉ đồng ”. Sau 5 năm, hiệu suất cao những dự án Bất Động Sản đã tương đối rõ. Thứ nhất Đến nay tỉ lệ ra lớp của trẻ dưới 3 tuổiđạt tỉ lệ đạt 35 % tăng gấp 7 lần so với khi chưathực hiện dự ấn. Thứ hai, trẻ em tham gia những hoạtđộng, được trao đổi nhiều nên trở nên tự tin hơn. Thứ ba, mạng lưới hệ thống cán bộ cấp thôn, xã sau quá trìnhlàm việc với Dự án đã biết cách lên kế hoạch, giám sát hiện trường và kêu gọi sự tham gia củacộng đồng trong những hoạt động giải trí. Thứ tư, những côngtrình của Dự án kiến thiết xây dựng đã mang hiệu suất cao cungcấp cơ sở vật chất cho địa phương ; trải qua đóDự án tuyên truyền về yếu tố vệ sinh nước sạchmôi trường cho mọi người. III.Kết luận : Dự án sẽ tương hỗ tối đa để trẻ em hoàn toàn có thể phát huymọi tiềm năng của mình cũng như nâng cao đángkể điều kiện kèm theo sống cho những em. Đặc biệt là : Đẩy mạnh phát triển hạ tầng để bà con dântộc đi lại, hoạt động và sinh hoạt thuận tiện, thuận tiện hơn. Đẩy mạnh tuyên truyền về quyền của trẻ em, đểtrẻ em được bảo vệ không chỉ có vậy, để họ hiểu con emcủa họ cũng có quyền học tập, đi dạo như baođứa trẻ khác, dù điều kiện kèm theo có khăn nhưng vìtương lai của những đứa trẻ nơi đây thì đó làđiều thiết yếu. Khuyến khích người dân dữ thế chủ động nói ra sự khókhăn và đề xuất tương hỗ. Nâng cao ý thức của người dân và tiêu diệt hủ tụclạc hậu .

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay