Andrés Iniesta – Wikipedia tiếng Việt

Andrés Iniesta Luján (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [anˈdɾes iˈnjesta luˈxan]; sinh ngày 11 thâng 5 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm và là đội trưởng của câu lạc bộ J1 League Vissel Kobe. Thường được coi là một trong những tiền vệ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá[2][3][4] và được biết đến nhiều là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại, Iniesta dành phần lớn sự nghiệp tại Barcelona, nơi anh là đội trưởng trong ba mùa giải.[5][6][7][8][9][10]

Trong suốt sự nghiệp cầu thủ, Iniesta được mệnh danh là “El Ilusionista” (Ảo thuật gia), “El Cerebro” (Bộ não), “El Anti-Galáctico” (một cách chơi chữ của các cầu thủ Real Madrid, Los Galácticos),” El Caballero Pálido” (Hiệp Sĩ trắng).[11]

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Sự nghiệp ban đầu

[sửa|sửa mã nguồn]

Iniesta đến từ Fuentealbilla, một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Albacete, Castile-La Mancha, nơi anh đa phần chơi futsal do không có sân bóng trong làng. [ 12 ] Năm 12 tuổi, khi tranh tài cho Albacete Balompié ở một giải đấu trẻ đá sân bảy người ở Albacete, anh đã lôi cuốn sự quan tâm của những tuyển trạch viên từ những câu lạc bộ trên khắp Tây Ban Nha. [ 13 ] Cha mẹ anh biết huấn luyện viên đội trẻ của Barcelona, Enrique Orizaola, và ông đã thuyết phục họ xem xét gửi Iniesta đến học viện chuyên nghành huấn luyện và đào tạo trẻ của Barcelona. Iniesta đã đến đó cùng cha mẹ và thăm La Masia, lò đào tạo và giảng dạy nơi câu lạc bộ nuôi dưỡng những cầu thủ trẻ của mình ; chuyến đi đó đã thuyết phục họ ghi danh Iniesta vào hàng ngũ trẻ của Barcelona. [ 14 ] Sau khi tận mắt chứng kiến Andres ghi bàn trong trận chung kết đội trẻ, Pep Guardiola đã nói với tiền vệ đồng hương Xavi rằng : ” Cậu sẽ khiến tôi phải giải nghệ. Nhưng cậu nhóc này sẽ khiến tổng thể tất cả chúng ta về vườn “. [ 15 ]
Iniesta với Barcelona vào năm 2006.
Ở mùa giải 2004 – 05, Iniesta ra sân ở 37 trong số 38 trận đấu tại giải vương quốc – nhiều hơn bất kể cầu thủ nào khác – mặc dầu 25 trận trong số này là những lần ra sân từ băng ghế dự bị. Anh ấy đã ghi hai bàn khi Barcelona vô địch La Liga. [ 16 ] Chấn thương của Xavi ở đầu mùa giải 2005 – 06 cho phép Iniesta ra sân tiếp tục hơn ở TT hàng tiền vệ, và anh liên tục cải tổ và tăng trưởng. [ 17 ] Anh đã tranh tài 11 trận UEFA Champions League, gồm có cả lần ra sân ở hiệp hai trong trận chung kết năm 2006, để sửa chữa thay thế Edmílson. [ 18 ] Những góp phần của anh cho đội bóng đã được huấn luyện viên Frank Rijkaard ca tụng khi Barcelona giành cú đúp vô địch vương quốc và Champions League. [ 19 ]Trong trận đấu loại trực tiếp tiên phong của cùng một giải đấu, anh đã chơi ở vị trí tiền vệ TT trong trận gặp Liverpool. Mặc dù đã được huấn luyện viên Rijkaard chuyển dời khắp sân, mùa giải 2006 – 07 vẫn là điểm số cao nhất của Iniesta cho đến nay. Mùa giải 2006 – 07 tận mắt chứng kiến sự vươn lên của Iniesta và anh nhận được nhiều lời khen ngợi vì chuẩn bị sẵn sàng chơi ở bất kể vị trí nào cho đội của mình. Iniesta lần tiên phong tranh tài ở vị trí tiền đạo cánh trái cho Barça trong hai trận đấu với Levski Sofia ở Champions League, ghi hai bàn. Ở vòng đấu loại trực tiếp tiên phong của giải đấu đó, anh đã tranh tài ở vị trí tiền vệ TT trong trận gặp Liverpool. Mặc dù được huấn luyện viên Rijkaard biến hóa vị trí khắp sân, mùa giải 2006 – 07 vẫn là mùa giải ghi bàn nhiều nhất của Iniesta cho đến nay .

Với sự ra đi của Ludovic Giuly trước mùa giải 2007–08, Iniesta đã có thể chuyển chiếc áo số 24 sang số 8 ưa thích của anh.[20] Bất chấp những tin đồn về khả năng chuyển nhượng trước mùa giải,[21] anh đã gia hạn hợp đồng đến năm 2014 vào ngày 25 tháng 1 năm 2008,[22] với điều khoản mua đứt được nâng lên 150 triệu euro.[23] Don Balón, một thành viên của Tạp chí Thể thao châu Âu, đã chọn Iniesta là một trong những cầu thủ có phong độ ổn định nhất trong hai mùa giải trước của La Liga; anh đứng thứ năm ở mùa giải 2006–07 và thứ tư ở mùa giải 2007–08.[24][25] Anh cũng đứng thứ chín trong cuộc bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2008 của FIFA, giành được tổng cộng 37 điểm.[26]

Ở đầu mùa giải 2008 – 09, vào tháng 9 năm 2008, Iniesta được bầu làm đội trưởng thứ tư sau Carles Puyol, Xavi và Víctor Valdés, theo thứ tự ưu tiên ; cả bốn đều là loại sản phẩm của mạng lưới hệ thống trẻ Barcelona. [ 27 ] Màn trình diễn của anh trong suốt mùa giải đã được nhìn nhận cao, và anh đã nhận được sự tán dương ở cả Barcelona tại Camp Nou, cũng như từ những cổ động viên của đối thủ cạnh tranh ở những trận đấu sân khách. [ 28 ] Một chấn thương ở chân vào giữa tháng 11 năm 2008 khiến Iniesta phải ngồi ngoài cho đến ngày 3 tháng 1 ; khởi đầu dự kiến ​ ​ sẽ trở lại trong sáu tuần, anh không muốn quay lại cho đến khi đạt thể trạng 100 %. Khi trở lại tranh tài vào ngày 3 tháng 1, với tư cách vào sân thay người ở phút 65 trong trận gặp Mallorca, anh đã ghi một bàn thắng quan trọng chỉ sau mười phút trên sân và hoàn tất màn lội ngược dòng của Barcelona trước Camp Nou. [ 29 ] 3 ngày sau, anh làm đội trưởng Barcelona lần tiên phong trong một trận đấu chính thức, thắng lợi 3-1 trước Atlético Madrid tại Vicente Calderón trong trận lượt đi vòng 16 đội Copa del Rey .Iniesta dính chấn thương khác trong trận đấu trên sân nhà với Málaga, nhưng đã trở lại tranh tài cho trận lượt đi tứ kết Champions League trước Bayern München vào ngày 8 tháng 4, mà Barcelona thắng 4 – 0. [ 30 ] Anh đã ghi bàn gỡ hòa quan trọng ở phút bù giờ ở đầu cuối trong trận lượt về bán kết Champions League trước Chelsea, với một cú vẩy má ngoài bằng chân phải cách khung thành 23 mét, giành thắng lợi cặp đấu nhờ bàn thắng sân khách khi trận đấu kết thúc với tỷ số 1-1 tại Stamford Bridge. [ 31 ]Bàn thắng của Iniesta vào lưới Chelsea đã đưa Barcelona vào chung kết ở Rome gặp đương kim vô địch Manchester United. Trước trận chung kết, huấn luyện viên Alex Ferguson của United đã xác lập Iniesta là mối rình rập đe dọa lớn nhất của Barça : ” Anh ấy thật tuyệt vời. Anh ấy khiến đội bóng quản lý và vận hành. Cách anh ấy tìm thấy những đường chuyền, cách vận động và di chuyển và năng lực tạo khoảng trống của anh ấy thật đáng kinh ngạc. Anh ấy rất quan trọng so với Barcelona. ” [ 32 ] Mặc dù bị chấn thương đùi, Iniesta đã ra sân và có ảnh hưởng tác động trong trận đấu, phân phối đường xây đắp cho bàn thắng tiên phong do Samuel Eto’o ghi bàn khi đội của anh sau đó giành thắng lợi 2 – 0. [ 33 ] Trong bài nghiên cứu và phân tích của mình, David Pleat viết : ” Cuối cùng thì thẩm mỹ và nghệ thuật tiền vệ của Iniesta và Xavi, được tương hỗ bởi [ Lionel ] Messi, là tác nhân quan trọng. ” [ 34 ] Sau trận đấu, tiền đạo Wayne Rooney của United đã diễn đạt Iniesta là cầu thủ xuất sắc nhất trên quốc tế. [ 35 ]

Iniesta đã nhận được những lời khen ngợi cho màn trình diễn của anh trong mùa giải đó; Don Balón đánh giá anh là cầu thủ có phong độ ổn định nhất của giải đấu.[36] Cuối năm đó, anh đứng thứ năm cho danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm 2009 của FIFA với 134 phiếu bầu,[37] và đứng thứ tư cho giải thưởng Quả bóng vàng, nhận được 149 điểm.[38] Barcelona đã gia hạn hợp đồng của anh thêm một năm, cho đến năm 2015 và nâng điều khoản mua đứt của anh lên 200 triệu euro.[39]

Barcelona đã giành chức vô địch giải đấu thứ hai liên tục trong mùa giải 2009 – 10, với kỷ lục 99 điểm. Tuy nhiên, về mặt cá thể, Iniesta đã phải trải qua một giải đấu hầu hết bị gián đoạn do chấn thương tái phát. Anh đã bỏ lỡ buổi tập thể lực trước mùa giải vì vết rách nát ở đùi trong trận chung kết Champions League 2009 [ 40 ]. Mặc dù góp mặt trong hầu hết những trận đấu so với mùa giải trước, anh ngồi ở ghế dự bị, chỉ với 20 trận trong suốt mùa. Mùa giải của Iniesta kết thúc sớm vào tháng 4 sau khi anh ấy bị chấn thương bắp chân trầm trọng hơn trong quy trình tập luyện. [ 41 ]Iniesta khởi đầu mùa giải 2011 – 12 bằng việc ghi bàn mở tỷ số trong trận lượt về Supercopa de España trước đối thủ cạnh tranh Real Madrid. Barcelona liên tục giành thắng lợi với tỷ số 3 – 2 và cúp vương quốc với tổng tỷ số 5 – 4. Một trong những bàn thắng đẹp nhất của anh ấy là vào tháng 10 vào lưới Viktoria Plzeň ở vòng bảng Champions League sau một đường chuyền của Messi. Iniesta đã chơi kỷ lục 51 trận bất bại ở La Liga, kết thúc bằng trận thua 2 – 0 của Barcelona trước Mallorca vào ngày 24 tháng 3 [ 42 ]. Tại Champions League, anh ghi một bàn thắng quan trọng vào lưới Milan ở tứ kết. Từ đó, anh liên tục ghi bàn trong trận bán kết với Chelsea để nâng tỷ số lên 2 – 0, nhưng trận đấu kết thúc với tỷ số 2 – 2, loại đội của anh với tổng tỷ số 3 – 2. Vào cuối năm đó, vào ngày 25 tháng 11, Iniesta được ca tụng là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu sau khi ghi một bàn và cung ứng ba đường kiến ​ ​ tạo trong thắng lợi 4 – 0 trước Levante [ 43 ]. Màn trình diễn của Iniesta đã mang về cho anh ấy vị trí thứ ba trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng FIFA 2012. [ 44 ]
Iniesta liên tục kí hợp đồng với Barcelona đến năm 2018. [ 45 ] Với tư cách là đội phó, anh tiếp tục dẫn dắt Barça trong suốt chiến dịch giành cú ăn ba thứ hai của câu lạc bộ trong mùa giải năm trước – 15, và chính thức trở thành đội trưởng sau sự ra đi của Xavi. Iniesta ghi ba bàn trong chiến dịch Copa del Rey của đội [ 46 ], và là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu trong trận Chung kết UEFA Champions League năm ngoái, sau khi kiến ​ ​ tạo bàn mở tỷ số của Ivan Rakitić trong trận thắng 3-1 trước nhà vô địch Ý Juventus tại Berlin [ 47 ]. Chiến thắng tại châu Âu của họ khiến Barcelona trở thành câu lạc bộ tiên phong trong lịch sử vẻ vang giành được hai lần cú ăn ba vô địch quốc nội, Iniesta nằm trong số bảy cầu thủ góp mặt trong cả hai lần đội giành cú ăn ba. [ 48 ]

Sự nghiệp quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Iniesta bùng nổ trên đấu trường quốc tế vào năm 2001, giúp Tây Ban Nha giành chức vô địch UEFA châu Âu dưới 16 tuổi. Sau khi đại diện thay mặt cho quốc gia của mình tại Giải vô địch quốc tế FIFA U-17 năm 2001 được tổ chức triển khai ở Trinidad và Tobago [ 49 ], anh đã xuất hiện trong đội hình giành chức vô địch UEFA châu Âu dưới 19 tuổi vào năm sau. Kể từ đó, anh trở thành sự lựa chọn liên tục của huấn luyện viên đội trẻ Juan Santisteban. Năm 2003, anh là một phần của đội lọt vào trận chung kết Giải vô địch trẻ quốc tế của FIFA tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và có tên trong đội toàn sao của FIFA [ 50 ]. Bên phía U21 Tây Ban Nha, Iniesta được bầu làm đội trưởng nhiều lần .FIFA World Cup 2006 là lần tiên phong Iniesta được triệu tập cho Đội tuyển bóng đá vương quốc Tây Ban Nha. Trong trận giao hữu với Nga ngày 27 tháng 5, anh lần đầu được góp mặt trên sân. [ 51 ] Bàn thắng tiên phong của Iniesta sau trận giao hữu với Anh vào ngày 7 tháng 2 năm 2007. Nỗ lực sút xa của anh ấy, chạm vào mặt dưới của xà ngang trên đường vào, giúp Tây Ban Nha dẫn trước ở phút 63. Iniesta đóng vai trò quan trọng trong việc Tây Ban Nha tham gia VCK Euro 2008 bằng cách ghi bàn vào lưới Thụy Điển và tương hỗ những tiền đạo .

Năm 2010, Iniesta cùng các đồng đội của mình lần đầu tiên có mặt tại chung kết World Cup 2010 tại Nam Phi. Bàn thắng của anh ở phút bù giờ 116[52] đã giúp Tây Ban Nha lần đầu tiên vô địch World Cup và đồng thời lần đầu tiên một nước ở châu Âu vô địch World Cup nằm ngoài châu Âu[53]. “116” sau đó đã được anh đặt tên cho cho loại rượu vang của mình.[54] Iniesta đã bị một thẻ vàng vì cởi áo đấu trong lễ ăn mừng bàn thắng xuất thần của mình để tiết lộ thông điệp của anh với người bạn quá cố Daniel Jarque.[55]

Tại Euro 2012, anh được bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu nhờ góp phần giúp Tây Ban Nha vô địch. [ 56 ] Trong trận chung kết thắng 4-0 với Ý, anh được nhận giải Man of the Match. [ 57 ]Sau kì World Cup 2018 không thành công xuất sắc của đội tuyển Tây Ban Nha ( thất bại trước chủ nhà Nga với tỉ số 3-4 ở loạt sút luân lưu 11 m sau khi hai đội hòa 1-1 suốt 120 phút tranh tài chính thức ), Iniesta công bố giã từ đội tuyển vương quốc sau 14 năm gắn bó, tổng số anh đã tranh tài 131 trận và ghi được 13 bàn thắng .
Iniesta kết hôn với Anna Ortiz ; cặp đôi bạn trẻ mở màn hẹn hò vào năm 2008 và kết hôn vào ngày 8 tháng 7 năm 2012. [ 58 ] Họ có hai con gái, Valeria ( sinh tháng 11 năm 2011 ) và Siena ( sinh tháng 5 năm 2017 ), và hai con trai, Paolo Andrea ( sinh tháng 5 năm năm ngoái ) [ 59 ] và Romeo ( sinh tháng 6 năm 2019 ) [ 60 ] Họ mất một đứa con chưa sinh, con trai Andrés Jr., do sẩy thai vào tháng 3 năm năm trước. [ 61 ]Vào năm 2011, Iniesta góp vốn đầu tư 420.000 Euro vào câu lạc bộ thời thơ ấu của anh, Albacete, qua đó trở thành cổ đông lớn của câu lạc bộ. [ 62 ] Hai năm sau, với việc câu lạc bộ đương đầu với việc bị đẩy xuống hạng tư của bóng đá Tây Ban Nha, anh cho họ mượn thêm 240.000 Euro để lo việc trả lương. [ 63 ]Vào tháng 5 năm 2018, Iniesta bật mý với Risto Mejide rằng anh phải chịu đựng sự trầm cảm trước khi tham gia FIFA World Cup 2010 do chấn thương và cái chết của Daniel Jarque. [ 64 ] [ 65 ]

Thống kê sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]

Tính đến ngày 20 tháng 5 năm 2018 [ 66 ]

Câu lạc bộ Mùa giải Giải Cúp Châu Âu Khác[67] Tổng cộng
Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Barcelona B 2000–01 10 0 10 0
2001–02 30 2 30 2
2002–03 14 3 14 3
Tổng cộng 54 5 54 5
Barcelona 2002–03 6 0 0 0 3 0 9 0
2003–04 11 1 3 1 3 0 17 2
2004–05 37 2 1 0 8 0 46 2
2005–06 33 0 4 0 11 1 1 0 49 1
2006–07 37 6 6 1 8 2 5 0 56 9
2007–08 31 3 7 0 11 1 49 4
2008–09 26 4 6 0 11 1 43 5
2009–10 29 1 3 0 9 0 1 0 42 1
2010–11 20 7 4 0 5 0 1 0 30 7
2011–12 27 2 6 2 9 3 4 1 46 8
2012–13 31 3 5 2 10 1 2 0 48 6
2013–14 35 3 6 0 9 0 2 0 52 3
2014–15 24 0 7 3 11 0 42 3
2015–16 28 1 4 0 8 0 44 1
2016–17 23 0 5 0 8 1 1 0 37 1
2017–18 30 1 5 1 8 0 1 0 44 2
Tổng cộng 442 35 73 10 135 11 24 1 674 57
Tổng cộng sự nghiệp 496 40 73 10 135 11 24 1 728 62

Đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Tính đến 1 tháng 7 năm 2018.[68]
Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Tây Ban Nha 2006 8 0
2007 12 5
2008 14 1
2009 5 0
2010 15 3
2011 9 1
2012 14 1
2013 17 0
2014 8 1
2015 5 1
2016 8 0
2017 8 1
2018 8 0
Tổng cộng 131 13

Bàn thắng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

U-16 Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]

U-19 Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]

Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]

  • UEFA Euro Team of the Tournament: 2008, 2012
  • La Liga Best Spanish Player: 2009
  • La Liga Best Midfielder: 2009, 2011, 2012, 2013, 2014
  • FIFA FIFPro World11: 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017
  • UEFA Team of the Year: 2009, 2010, 2011, 2012, 2015, 2016
  • Onze de Bronze: 2009
  • FIFA World Cup Dream Team: 2010
  • UEFA Champions League top assist provider: 2010–11
  • ESM Team of the Year: 2010–11, 2017–18
  • Onze d’Argent: 2011
  • Marca Legend Award: 2011
  • UEFA Best Player in Europe Award: 2012
  • UEFA Euro Player of the Tournament: 2012
  • IFFHS World’s Best Playmaker: 2012, 2013
  • IFFHS World Team of the Decade 2011–2020
  • IFFHS UEFA Team of the decade 2011–2020
  • FIFA Confederations Cup Silver Ball: 2013
  • La Liga top assist provider: 2012–13
  • Golden Foot: 2014
  • UEFA Champions League Squad of the Season: 2014–15, 2015–16
  • UEFA Ultimate Team of the Year (published 2015)
  • FIFA Club World Cup Bronze Ball: 2015
  • France Football World XI: 2015
  • La Liga Team of the Season: 2015–16
  • UEFA Euro All-time XI (published 2016)
  • J.League Best XI: 2019, 2021
  • Ballon d’Or Dream Team (Bronze): 2020

Khác

  • Prince of Asturias Awards: 2010
  • Gold Medal of the Royal Order of Sporting Merit: 2011
  • Queen Sofia Award: 2017
  • Grand Cross of the Royal Order of Sports Merit: 2018

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vvc.vn
Category : Thể thao

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay