David Villa – Wikipedia tiếng Việt

David Villa Sánchez (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [daˈβið ˈbiʎa santʃeθ]; sinh ngày 3 tháng 12 năm 1981) là một cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha từng chơi ở vị trí tiền đạo. Villa được coi là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất trong thế hệ của anh và là một trong những tiền đạo Tây Ban Nha xuất sắc nhất mọi thời đại.

Biệt danh El Guaje (Đứa trẻ theo tiếng Asturias) do nổi tiếng chơi bóng với những đứa trẻ lớn hơn anh nhiều tuổi.[2][3] Villa tuy dính chấn thương nặng khi còn nhỏ nhưng đã bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với Sporting de Gijón vào năm 2001. Anh chuyển đến Real Zaragoza sau hai mùa giải, nơi anh có trận ra mắt tại La Liga, giành Copa del Rey và Supercopa de España. Anh gia nhập Valencia vào năm 2005 với phí chuyển nhượng 12 triệu euro và giành được một danh hiệu Copa del Rey khác. Ở tuổi 28, Villa ghi được 28 bàn thắng tại giải VĐQG và được chuyển đến Barcelona với giá 40 triệu euro vào năm 2010, nơi anh giành chức vô địch La Liga và UEFA Champions League đầu tiên, đồng thời ghi bàn trong trận chung kết năm 2011. Anh rời câu lạc bộ vào năm 2013 với mức phí chuyển nhượng trị giá 5,1 triệu euro để đến Atlético Madrid, tại đây anh tiếp tục giành được một danh hiệu La Liga. Sau một mùa giải duy nhất thi đấu cho đội bóng thủ đô Tây Ban Nha, Villa đến gia nhập New York City, nơi anh trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn thắng của câu lạc bộ, giành giải MLS MVP cho cầu thủ xuất sắc nhất năm 2016. Năm 2018, Villa tuyên bố rời New York để đầu quân cho Vissel Kobe của Nhật Bản.

Villa có trận ra đời quốc tế cho Tây Ban Nha vào năm 2005. Anh đã tham gia 4 giải đấu lớn và là thành viên không hề thiếu của đội tuyển Tây Ban Nha giành chức vô địch UEFA Euro 2008 và World Cup 2010. Anh ghi ba bàn tại World Cup 2006, là vua phá lưới tại Euro 2008 và giành Chiếc giày bạc tại World Cup 2010. Màn trình diễn của anh cho Tây Ban Nha và Valencia đã giúp anh có tên trong FIFA FIFPro World11 năm 2010. Anh trở thành cầu thủ Tây Ban Nha tiên phong đạt 50 bàn thắng quốc tế và sau sự trở lại ngắn ngủi vào năm 2017, anh từ giã đội tuyển vương quốc với 59 bàn thắng trong 98 trận đấu, anh trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại của Tây Ban Nha cũng như vua phá lưới của quốc gia tại World Cup, với chín bàn thắng. [ 4 ]

Tuổi thơ và đầu đời[sửa|sửa mã nguồn]

Villa sinh ra ở Tuilla, một giáo xứ nhỏ ở Langreo, Asturias, một vùng phía bắc Tây Ban Nha, là con trai của José Manuel Villa, một thợ mỏ. Khi Villa lên 4, thời cơ trở thành cầu thủ bóng đá của anh ấy bị rình rập đe dọa khi anh ấy bị gãy xương đùi ở chân phải, nhưng anh ấy đã bình phục trọn vẹn. Do chấn thương, anh ấy và cha anh ấy đã thao tác để tăng cường sức mạnh cho chân trái của anh ấy và ở đầu cuối Villa đã trở thành người thuận cả hai tay. Anh nhớ lại việc cha anh luôn ủng hộ : ” Ông ấy sẽ ở đó ném bóng cho tôi nhiều lần, khiến tôi đá nó bằng chân trái khi bên phải của tôi đã bị gãy sau khi phá vỡ nó, tôi mới bốn tuổi. Tôi phần nhiều không hề nhớ được một lần tập luyện nào. khi bố tôi không ở đó. Tôi chưa khi nào một mình trên sân bóng. ” » .Villa thừa nhận rằng anh đã gần từ bỏ bóng đá ở tuổi 14 sau khi vỡ mộng và tuyệt vọng với huấn luyện viên của mình. Tuy nhiên, nhờ sự động viên của cha mẹ, anh vẫn kiên trì theo đuổi tham vọng, nhận ra năng lực của mình hoàn toàn có thể tự kiếm sống. ” Trong những ngày đó, tôi chẳng là ai cả, không kiếm được một xu nào và sau khi bị bắt ngồi dự bị cả mùa giải, tôi chỉ muốn được ra ngoài chơi với bạn hữu “, anh nói. ” Nhưng bố tôi luôn ủng hộ tôi và cổ vũ tôi cho đến khi sự nghiệp của tôi bước ngoặt. ” Anh ấy khởi đầu sự nghiệp bóng đá của mình tại UP Langreo và khi anh ấy 17 tuổi, anh ấy gia nhập trường bóng đá Mareo .

Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Villa lôi cuốn sự chăm sóc từ nhiều đội Asturian, nhưng một trong những đội bóng lớn hơn của tỉnh, Real Oviedo, công bố rằng anh ấy quá thiếu và họ không tin rằng anh ấy có đủ tiềm năng. Sau đó, anh có bước nâng tầm chuyên nghiệp tại câu lạc bộ địa phương Sporting de Gijón, theo bước chân của thần tượng thời thơ ấu Quini. Bắt đầu ở đội trẻ của đội, anh ấy đã có trận ra đời đội một trong mùa giải 2000 – 01. Sau khi ghi được 25 bàn thắng trong hai mùa giải, anh ấy đã trở thành đội một tiếp tục. Pepe Acebal, huấn luyện viên của Sporting vào thời gian đó, nói rằng Villa bắt đầu thiếu thể lực để có ảnh hưởng tác động thực sự và phải được trao thời cơ từng chút một và năng lượng thao tác của Villa là ” vô song ” .
Với tổng số bàn thắng của anh ấy gần đạt 40 bàn sau khi trải qua hai mùa giải toàn vẹn trong đội hình chính của Sporting, Villa có thời cơ trong chuyến bay số 1 của Tây Ban Nha khi Sporting gặp khó khăn vất vả về kinh tế tài chính – Real Zaragoza mới được thăng chức đã ký hợp đồng với anh ấy với giá khoảng chừng 3 triệu euro trong mùa hè năm 2003. Tiền đạo này không gặp khó khăn vất vả gì trong việc thích nghi với việc chơi ở Lever cao hơn, ghi 17 bàn trong mùa giải tiên phong tại Zaragoza. Trận ra đời giải đấu của anh ấy diễn ra trong trận đấu La Liga tiên phong của Zaragoza kể từ khi anh ấy đến, nơi đội bị vượt mặt 1 – 0 trước Deportivo de La Coruña bên phía Galicia trong khi bàn thắng tiên phong của anh ấy đến sau hai trận đấu, bàn thắng ở phút thứ tám vào lưới Real Murcia đưa Zaragoza nâng tỷ số lên 2 – 0 trong trận đấu kết thúc với tỷ số 3 – 0. Ngày 4 tháng 12 năm 2003, anh ghi cú đúp tiên phong ( hai bàn ) trong trận hòa 2 – 2 trước Athletic Bilbao và vào ngày 25 tháng 4 năm 2004, anh ghi hat-trick tiên phong trong trận hòa 4 – 4 trước Sevilla tận mắt chứng kiến ​ ​ Villa ghi cả 4 bàn thắng cho Zaragoza, giúp đội của anh ấy vượt lên dẫn trước 2 lần .

Zaragoza đã lọt vào trận chung kết Copa del Rey năm 2004, nơi anh đóng góp một phần không nhỏ trong chiến thắng của đội, ghi một bàn thắng quan trọng giúp đội bóng xứ Aragon nâng tỷ số lên 2-1 trước Real Madrid trong trận đấu cuối cùng kết thúc với tỷ số 3–2. Ngay sau đó, anh ấy đã giành được cuộc gọi quốc tế đầu tiên và đội mũ bảo hiểm, điều này khiến người hâm mộ Zaragoza trở nên tự hào về thành tích của anh ấy đến mức họ đã phát minh ra bài hát bóng đá “illa illa illa, Villa maravilla“, một cách chơi chữ “Villa” và “maravilla“, sau này được dịch là” kỳ diệu “nhưng cũng có thể có nghĩa là “tuyệt vời” hoặc “tuyệt vời” trong ngữ cảnh đó.

Sau thắng lợi của Zaragoza tại Copa del Rey, họ đã giành được một suất tham gia UEFA Cup 2004 – 05 ; đây là lần tiên phong Villa chơi ở một giải đấu Lever châu Âu. Trong trận mở màn của đội, trước Utrecht, Villa đã lập một cú đúp vào những phút mê hoặc của trận đấu, kết thúc 2 – 0 nghiêng về Zaragoza. Ở vòng 1/16, Zaragoza cạnh tranh đối đầu với Austria Wien. Trận lượt đi kết thúc với tỷ số 1 – 1, trong khi Villa ghi bàn ở trận lượt về với tỷ số hòa 2 – 2 ; Austria Wien tranh tài theo luật bàn thắng sân khách. Trong khi đó, tại La Liga, Villa đã làm nức lòng người hâm mộ Zaragoza vào ngày 23 tháng 9 năm 2004 bằng cách đưa đội dẫn trước Barcelona với tỷ số 1 – 0 tại Camp Nou, mặc dầu Barcelona đã lội ngược dòng để giành thắng lợi với tỷ số 4 – 1. Vào ngày 17 tháng 4 năm 2005, Villa lập một cú đúp giúp tiễn Sevilla trong thắng lợi 3 – 0 .
Tại La Liga 2005 – 06, Villa ghi 25 bàn trong 35 trận và xếp thứ ba cho thương hiệu vua phá lưới sau Samuel Eto’o của Barcelona. Anh có được hat-trick tiên phong cho Valencia trong trận gặp Athletic Bilbao vào ngày 23 tháng 4 năm 2006. Đây cũng là hat-trick nhanh nhất trong lịch sử vẻ vang La Liga, được lập chỉ trong 5 phút. [ 5 ] [ 6 ]Villa lại có một mùa giải tuyệt vời nữa cho Valencia trong mùa bóng 2006 – 07 với người cùng anh đá cặp trên hàng công là cựu cầu thủ của Real Madrid Fernando Morientes. Villa và Morientes đã ghi 40 bàn cho Valencia trên mọi mặt trận. Tại vòng 2 UEFA Champions League 2005 – 2006 gặp Inter Milan, Villa ghi một bàn thắng tuyệt đẹp từ quả đá phạt trực tiếp đưa Valencia vào tứ kết và thua Chelsea .Tuy nhiên đến mùa giải 2007 – 08, Valencia tranh tài cực kỳ thiếu không thay đổi. Họ bị loại sớm tại UEFA Champions League 2007 – 2008 và Villa chỉ ghi được một bàn thắng. Tại La Liga, Villa ghi được 18 bàn thắng nhưng Valencia chỉ xếp hạng 10 chung cuộc và suýt nữa đã xuống hạng. Với hiệu quả này, họ không được tham gia UEFA Champion League mùa bóng sau .Hai điểm nhấn đáng quan tâm trong mùa giải này của Villa là trong trận đấu thứ 100 tại La Liga cho Valencia, Villa đã lập một hat-trick vào lưới Levante và 2 bàn thắng trong trận đấu ở đầu cuối của Valencia tại La Liga 2007 / 2008 gặp Atletico Madrid giúp anh cho đến nay có 58 bàn cho Valencia và việc cùng những đồng đội tại Valencia giành ngôi vô địch Cúp Nhà vua Tây Ban Nha khi vượt mặt Getafe 3-1 trong trận chung kết. [ 7 ]Sau khi trở thành vua phá lưới của Euro 2008, Villa khởi đầu mùa bóng 2008 – 2009 bằng bàn thắng ngay trong trận mở màn với Mallorca. [ 8 ] Tháng 10 năm 2008, Kaká đã có lời tán dương Villa khi phát biểu với Canal +, anh khẳng định chắc chắn Villa là ” cầu thủ Tây Ban Nha xuất sắc nhất ” cũng như ” cầu thủ mà anh thích chơi cùng nhất là David Villa của Valencia. ” [ 9 ] Ngày 2 tháng 12, Villa xếp hạng 7 trong cuộc bầu chọn Ballon d’Or năm 2008 [ 10 ] và vào ngày 12 tháng 1 năm 2009, anh liên tục đứng hạng 9 trong cuộc bầu chọn Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA, đồng hạng với người đồng hương tại Barcelona, Andrés Iniesta. [ 11 ]Tháng 3 năm 2009, Villa bị chấn thương đầu gối trái khiến anh phải nghỉ tranh tài trong 15 ngày, vắng mặt trong những trận đấu gặp Numancia, Recreativo de Huelva va Racing de Santander. [ 12 ] Khi anh trở lại vào ngày 5 tháng 4, anh lập tức có ngay cú đúp vào lưới Getafe, trong thắng lợi 4-1 của Valencia. [ 13 ] Ngày 12 tháng 4, Villa đã trở lại sân El Molinón, nơi anh khởi đầu sự nghiệp bóng đá cùng câu lạc bộ quê nhà Sporting de Gijón. Trận đấu còn vài tiếng đồng hồ đeo tay mới diễn ra, những phóng viên báo chí ảnh và quay phim đã đến và cố tìm cho mình những góc quay tốt nhất. Phía ngoài sân El Molinón là băng rôn : ” Villa, chúng tôi tự hào về anh “. Những thầy cô giáo đã từng dạy Villa cũng mặc áo có in hình anh. Sân El Molinón 23.000 chỗ ngồi hôm ấy chật kín. Bố mẹ Villa cũng xuất hiện trong đêm ấy. Trong trận đấu này, Villa đã ghi một bàn thắng từ một quả phạt đền nhưng anh không hề ăn mừng bàn thắng theo những cách quen thuộc mà anh đứng đó, chắp 2 tay lại và cúi đầu xuống như một lời tạ tội. Chung cuộc Valencia thắng 3-2 và trở lại top 4. Bàn thắng thứ 28 trong mùa giải của anh trong trận ở đầu cuối gặp Athletic Bilbao đã đưa anh ngang bằng kỉ lục ghi bàn trong một mùa giải cho Valencia của tiền đạo người Argentina Mario Kempes và tiền đạo người Montenegro Predrag Mijatovic ở mùa giải 1978 và 1996. Kempes có được 28 bàn trong 34 trận trong khi số lượng của Mijatovic là 40 trận. Riêng Villa đã lập được thành tích ấy trong 33 trận, trung bình 0.84 bàn thắng mỗi trận. Đây hoàn toàn có thể xem là mùa giải thành công xuất sắc nhất cho đến nay của Villa cho Valencia. [ 14 ] Anh kết thúc mùa giải với vị trí thứ 3 trong list vua phá lưới La Liga, sau Samuel Eto’o ( 30 bàn ) và Diego Forlan ( 32 bàn ) .Sau khi cùng đội tuyển Tây Ban Nha chịu thất bại tại Confederations Cup 2009, Villa đã trở lại sau kì nghỉ vào ngày 27 tháng 7. Trong khi đó, Open hàng loạt tin đồn thổi về việc anh sẽ chuyển đến tranh tài cho Real Madrid, [ 15 ] Barcelona, [ 16 ] Liverpool, [ 17 ] Chelsea [ 18 ] and Manchester United. [ 19 ] Tuy nhiên, Villa vẫn khẳng định chắc chắn anh sẽ gắn bó cùng đội bóng chủ sân Mestalla cho đến hết hạn hợp đồng .Ngày 20 tháng 8 năm 2009, Villa ghi bàn thắng chính thức tiên phong ở mùa giải mới, trong thắng lợi 3-0 của Valencia trước Stabæk tại UEFA Europa League. [ 20 ]
Villa tại buổi ra mắt tại Barcelona năm 2010.
Trong kì chuyển nhượng ủy quyền mùa hè 2010, Villa chuyển đến Barcelona FC với mức giá 40 triệu Euro [ 21 ], và được kì vọng làm quên đi Zlatan Ibrahimović. Anh khoác áo số 7 tại Barcelona, số áo chưa có ai mặc kể từ mùa giải 2008 – 09, trước đó thuộc về Eiđur Guđjohnsen. [ 22 ] Anh có trận đầu tiên phong cho câu lạc bộ mới tại trận đấu lượt về Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha 2010, khi vào sân thay cho Pedro Rodríguez. Trận đấu này cũng lưu lại thương hiệu tiên phong của anh cùng câu lạc bộ, sau thắng lợi 5-3 trước Sevilla sau hai lượt đi về, trong đó Lionel Messi lập được hat-trick. [ 23 ]Ngày 29 tháng 8 năm 2010, Villa có trận tiên phong tại La Liga cho Barcelona trong thắng lợi 3-0 trước Racing de Santander, chính anh là người ghi bàn ấn định tỉ số trận đấu. [ 24 ] Ngày 14 tháng 9 năm 2010, Villa có trận ra đời trong màu áo Barcelona tại Champions League và anh liên tục ghi bàn trong thắng lợi 5-1 trước Panathinaikos F.C. [ 25 ] Ngay trong trận đấu ” El Clásico ” tiên phong mà anh tham gia ngày 29 tháng 11, Villa đã lập một cú đúp trong thắng lợi 5-0 của Barcelona tại Camp Nou. [ 26 ]Ngày 27 tháng 12 năm 2010, Villa được giải ” Vận động viên của năm ” do Học viện Thể thao Hoa Kỳ trao tặng. [ 27 ]Ngày 29 tháng 5, Villa ghi bàn thắng quyết định hành động trong trận chung kết UEFA Champions League 2011, giúp Barcelona vượt mặt đối thủ cạnh tranh Manchester United với tỷ số 3-1. Đây cũng là thương hiệu Champions League tiên phong trong sự nghiệp cầu thủ của anh. [ 28 ]
Trận đấu chính thức tiên phong của anh trong mùa giải này là cuộc cạnh tranh đối đầu với Real Madrid tại lượt đi Siêu cúp bóng đá Tây Ban Nha 2011, nơi mà Villa đã ghi một bàn thắng quý phái giúp Barcelona cầm hòa 2-2 Real tại sân Santiago Bernabéu, [ 29 ] nhưng trong trận lượt về sau đó anh đã bị truất quyền tranh tài do tranh cãi với Mesut Özil. [ 30 ] Ngày 17 tháng 9 năm 2011, Villa đã ghi hai bàn thắng và buộc Rovérsio phải phản lưới nhà trong trận thắng diệt trừ 8-0 của Barcelona. [ 31 ]Villa bị gãy xương ống chân trái trong trận đấu với Al Sadd tại Giải vô địch bóng đá quốc tế những câu lạc bộ 2011. Bác sĩ chẩn đoán anh phải nghỉ tranh tài hơn sáu tháng, [ 32 ] [ 33 ] tuy nhiên sau đó chấn thương này khiến anh không hề tranh tài quá trình còn lại của mùa giải 2011 – 2012 và thậm chí còn không hề tham gia Euro 2012 cùng đội tuyển Tây Ban Nha .
Sau 8 tháng nghỉ tranh tài vì chấn thương, Villa trở lại vào ngày 11 tháng 8 năm 2012 ở phút 73 trong trận đấu giữa Barcelona và Dinamo Bucharest. Tám ngày sau đó, anh trở lại đấu trường La Liga khi vào sân thay cho Pedro. Tuy nhiên chỉ sau đó 7 phút anh đã ghi tên mình lên bàn tỉ số với bàn ấn định thắng lợi 5-1 trước Real Sociedad. [ 34 ]Trong trận đấu vòng 1/16 UEFA Champions League 2012 – 2013 với A.C. Milan, Villa là người đã ghi bàn thắng thứ ba trong thắng lợi 4-0 của Barcelona, giúp đội bóng này lội ngược dòng thành công xuất sắc khoảng cách hai bàn ở trận lượt đi. [ 35 ] Đến vòng tứ kết gặp Paris Saint-Germain, Villa thiết kế cho Pedro ghi bàn gỡ hòa 1-1 ở trận lượt đi. Chung cuộc Barcelona lọt vào bán kết và bị loại bởi Bayern Munich. [ 36 ]Tại Barcelona, Villa đã ghi được 48 bàn thắng trong tổng số 119 trận đấu trên tổng thể những giải đấu. [ 37 ]
Ngày 8 tháng 7 năm 2013, Barcelona công bố đã đạt được thỏa thuận hợp tác chuyển nhượng ủy quyền Villa đến với Atlético Madrid với giá 5,1 triệu €. [ 38 ] Tại Atlético, anh sẽ khoác áo số 9, số áo cũ của Radamel Falcao. [ 39 ] Bàn thắng tiên phong của anh cho Atlético là một cú sút xa từ hơn 20 m trong thắng lợi 2-0 trước UD Las Palmas Ở trận giao hữu trước mùa giải. [ 40 ] Ngày 21 tháng 8 năm 2013, anh có bàn thắng tiên phong cho câu lạc bộ mới bằng bàn thắng vào lưới chính câu lạc bộ cũ Barcelona trong trận lượt đi Siêu cúp Tây Ban Nha 2013 kết thúc với tỉ số hòa 1-1. [ 41 ] Sau hai bàn thắng vào lưới Real Sociedad và Almería, Villa trải qua 40 ngày không hề ghi bàn cho Atlético dù được ra sân liên tục. Đến ngày 27 tháng 10, anh chấm hết cơn khát bàn thắng vào cú đúp trong thắng lợi 5-0 trước Real Betis. [ 42 ]Ngày 8 tháng 3 năm năm trước, anh lập cú đúp trong thắng lợi 2-0 trước Celta de Vigo, giúp Atlético trở lại vị trí thứ hai tại La Liga. [ 43 ] Villa có được 13 bàn thắng trong 36 trận đấu tại La Liga cho Atlético Madrid, góp công giúp đội bóng này giành chức vô địch La Liga tiên phong kể từ năm 1996. [ 44 ] [ 45 ]

New York City[sửa|sửa mã nguồn]

Villa thi đấu cho New York City vào tháng 5 năm 2015
Ngày 2 tháng 6 năm năm trước, câu lạc bộ mới xây dựng tại Giải bóng đá Nhà Nghề Mỹ ( MLS ) là New York City thông tin David Villa là cầu thủ tiên phong gia nhập câu lạc bộ. Villa đến với Thành Phố New York theo dạng chuyển nhượng ủy quyền tự do từ Atlético Madrid. [ 46 ]
Song song với việc gia nhập New York City, Villa cũng đến đội bóng của Úc tại A-League là Melbourne City do đội bóng Mỹ khởi đầu tranh tài từ đầu năm năm ngoái nên Villa cần nơi tranh tài thời hạn cuối năm năm trước. Villa được dự kiến sẽ chơi 10 trận cho Melbourne City. [ 47 ] Sau khi tập luyện cùng Melbourne City một tuần, Villa ghi bàn ngay trong trận ra đời với Sydney FC. [ 48 ] Ngày 19 tháng 10 năm năm trước, trong trận đấu thứ hai, anh ghi bàn gỡ hòa 1-1 trước Newcastle Jets ở phút thứ 87 của trận đấu. [ 49 ]Mặc dù ký hợp đồng tranh tài 10 trận, Villa được Thành Phố New York triệu hồi chỉ sau 4 trận và trong trận sau cuối của mình tại Úc, đội bóng của anh để thua Adelaide United 2-1. [ 50 ] Sự xuất hiện của Villa tại Melbourne City đã lôi kéo nhiều người theo dõi đến sân và góp thêm phần làm tăng sự quan tâm đến đội bóng Úc. [ 51 ]

Trở lại New York City[sửa|sửa mã nguồn]

Villa lần đầu tiên được chỉ định giữ băng đội trưởng của NYCFC vào ngày 2 tháng 1 năm 2015. 9 ngày sau, trong trận giao hữu với clb St Mirren từ Scotland, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho CLB. Ngày 8 tháng 3, anh có trận đấu chính thức đầu tiên cho CLB, họ đối đầu với một đội bóng cũng mới thành lập là Orlando City. Trong trận hòa 1-1 này, anh kiến tạo một bàn cho Mix Diskerud và bị phạm lỗi bởi Aurélien Collin, cầu thủ đã bị đuổi ra ngoài ngay sau đó. Một tuần sau, trong trận đấu đầu tiên trên sân nhà Yankee Stadium, Villa ghi bàn mở tỉ số trong chiến thắng 2-0 trước New England Revolution, đây là trận thắng đầu tiên ở giải của CLB.

Ngày 12 tháng 6, Villa lập cú đúp trong trận hòa 4-4 trước Toronto FC mặc dầu đã đá hỏng một quả phạt đền trong hiệp 1. Anh được chọn vào đội hình tranh tài trận MLS All-Star năm ngoái, trận đấu diễn ra ngày 29 tháng 6 tại sân Dick’s Sporting Goods Park ở Comerce City, Colorado, anh ghi bàn từ đường kiến thiết của Kaká và đội MLS All-Star đã vượt mặt Tottenham Hotspur với tỉ số 2-1. Mặc dù Villa có phong độ rất tốt và ghi được 18 bàn trong mùa giải năm ngoái nhưng NYCFC vẫn bị loại ở MLS Cup PlayoffsTháng 6 năm năm nay, Villa liên tục được gọi vào list tranh tài của MLS All-Star .

Sự nghiệp đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Villa có trận tiên phong cho đội tuyển bóng đá vương quốc Tây Ban Nha vào ngày 9 tháng 2 năm 2005 trong trận gặp San Marino tại Estadio del Mediterráneo. Bàn thắng tiên phong của anh cho đội tuyển là pha ghi bàn gỡ hòa 1-1 tại Vòng loại World Cup 2006 với Slovakia. [ 52 ]

World Cup 2006[sửa|sửa mã nguồn]

Villa có tên trong list 23 cầu thủ Tây Ban Nha dự World Cup 2006 tổ chức triển khai tại Đức và ngay trong trận tiên phong gặp Ukraina anh đã có hai bàn thắng trong đó có một bàn từ đá phạt trực tiếp. [ 53 ] Bàn thắng thứ 3 và cũng là ở đầu cuối của anh tại giải ghi vào lưới đội tuyển Pháp trong trận Tây Ban Nha thua Pháp 3-1 ở vòng 1/16 và sớm phải rời giải. [ 54 ] Anh và đồng đội Fernando Torres là những người ghi nhiều bàn thắng nhất cho Tây Ban Nha tại World Cup 2006 với 3 bàn thắng. [ 55 ]Sau World Cup 2006, Villa liên tục là sự lựa chọn số 1 trên hàng công đội tuyển Tây Ban Nha tại vòng loại Euro 2008. Suốt vòng sơ loại, anh đã ghi được 6 bàn và cũng là người ghi nhiều bàn thắng nhất ở vòng loại cho đội tuyển Tây Ban Nha. Anh còn ghi bàn trong trận giao hữu gặp đội tuyển Ý vào ngày 26 tháng 3 năm 2008 [ 56 ] và chính thức có tên trong 23 cầu thủ dự Euro 2008 của huấn luyện viên Luis Aragones .
Trong trận đấu tiên phong với đội tuyển Nga vào ngày 10 tháng 6 năm 2008, David Villa đã lập hat-trick tiên phong của Euro 2008 và là cầu thủ thứ 7 qua những kì Euro làm được điều này để giúp Tây Ban Nha thắng đội tuyển Nga 4-1. [ 57 ] Ngoài ra anh còn giành luôn thương hiệu cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu Tây Ban Nha – Nga. [ 58 ]Trận thứ hai gặp Thụy Điển vào ngày 14 tháng 6, Villa ghi bàn thắng ấn định tỉ số 2-1 cho Tây Ban Nha ở phút 92 của trận đấu. [ 59 ] Bàn thắng này cũng giúp anh lần thứ 2 liên tiếp nhận thương hiệu cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu. [ 58 ]Vào vòng tứ kết Euro 2008, Tây Ban Nha gặp đội nhì bảng C, đội tuyển Ý. Trận đấu Ý – Tây Ban Nha diễn ra trong thế trận thận trọng của cả đôi bên và cả Villa cùng Torres gặp phải đội hình phòng thủ nhiều tầng của đội tuyển Ý nên đã không hề ghi bàn và trận đấu kết thúc với tỉ số 0-0 sau 120 phút tranh tài. Trong loạt sút luân lưu, Villa đã thực thi thành công xuất sắc loạt sút thứ nhất và chung cuộc Tây Ban Nha thắng Ý 4-2 trong loạt sút luân lưu và giành quyền vào bán kết gặp lại đội tuyển Nga. [ 60 ]Tại trận gặp Nga ở bán kết, Villa không ghi được bàn thắng nào và phải rời sân vì chấn thương ngay trong hiệp 1. Với chấn thương này, anh còn không hề tham gia trận chung kết Euro 2008 gặp đội tuyển Đức vào ngày 20 tháng 6. Trong trận chung kết, Tây Ban Nha đã giành thắng lợi 1-0 với bàn thắng của Fernando Torres để lần thứ hai đăng quang ngôi vô địch Euro. Cùng lúc đó, Lukas Podolski của Đức không ghi bàn trong trận chung kết nên David Villa cũng giành luôn thương hiệu Vua phá lưới Euro 2008 với 4 bàn thắng. [ 61 ] Anh cùng với người đồng đội Fernando Torres có tên trong Đội hình tiêu biểu vượt trội của giải đấu này. [ 62 ]

Confederations Cup 2009 và vòng loại World Cup 2010[sửa|sửa mã nguồn]

Trong trận đấu tiên phong của đội tuyển Tây Ban Nha tại Vòng loại World Cup 2010 gặp Bosnia và Herzegovina, Villa chính là người ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu. Anh liên tục ghi bốn bàn trong ba trận tiếp theo, trong đó có bàn thắng ở phút cuối trận gặp Bỉ và sau đó là bàn thắng vào lưới Chile, giúp anh kết thúc năm 2008 với 12 bàn thắng cho đội tuyển Tây Ban Nha, vượt qua kỷ lục cũ 10 bàn do Raúl lập vào năm 1999. [ 63 ] Villa khởi đầu năm 2009 với bàn thắng trong trận giao hữu thắng đội tuyển Anh 2 – 0. [ 64 ] Bàn thắng này cũng giúp cho Villa lập được một kỷ lục khác, đó là cầu thủ Tây Ban Nha tiên phong ghi bàn trong sáu trận liên tục cho đội tuyển khác, vượt qua thành tích cũ của Telmo Zarra và Ladislao Kubala. [ 65 ]
Villa (mang áo số 7) trong trận đấu giữa Tây Ban Nha và Áo.
Ngày 1 tháng 6 năm 2009, Villa được triệu tập tham gia FIFA Confederations Cup 2009 tại Nam Phi. [ 66 ] Trong trận giao hữu trước giải, Villa đã lập hat-trick thứ hai trong màu áo đội tuyển vào lưới Azerbaijan, gần một năm sau hat-trick tiên phong với Nga tại Euro 2008. [ 67 ] Anh ghi bàn ngay trận đấu tiên phong của Tây Ban Nha tại giải đấu ghi ấn định thắng lợi 5-0 trước New Zealand [ 68 ], và trong trận đấu tiếp thaeo anh liên tục ghi bàn giúp Tây Ban Nha thắng nhà vô địch châu Á Iraq. [ 69 ] Đến trận gặp chủ nhà Nam Phi, anh bỏ lỡ một quả phạt đền nhưng ghi bàn ngay sau đó để giúp Tây Ban Nha dẫn trước. [ 70 ] Với ba bàn thắng, Villa giành được thương hiệu Chiếc giày Đồng của giải đấu, đồng thời được chọn vào đội hình tiêu biểu vượt trội của giải đấu. [ 71 ]Villa có trận đấu thứ 50 cho đội tuyển Tây Ban Nha trong trận thắng 3-2 của Tây Ban Nha trước Macedonia. [ 72 ] Ngày 5 tháng 9 năm 2009, Villa ghi hai bàn, đồng thời kiến thiết cho đồng đội ghi hai bàn nữa trong thắng lợi đội tuyển Bỉ 5-0 tại A Coruña. [ 73 ] Anh kết thúc năm 2009 bằng cú đúp vào lưới đội tuyển Áo, giúp anh cân đối kỷ lục ghi bàn trong một năm của chính mình lập vào năm trước. [ 74 ] Villa lại ghi bàn ngay trong trận đấu tiên phong của Tây Ban Nha năm 2010 gặp đội tuyển Pháp ngay tại Stade de France. [ 75 ]

World Cup 2010[sửa|sửa mã nguồn]

Trận đấu tiên phong của đội tuyển Tây Ban Nha tại World Cup 2010, Villa được chọn làm tiền đạo cắm duy nhất, nhưng anh đã không hề làm bất kể điều gì để giúp Tây Ban Nha khỏi trận thua đầy giật mình trước đội tuyển Thụy Sĩ. [ 76 ] Năm ngày sau, đội tuyển Tây Ban Nha đã vượt mặt đội tuyển Honduras với cú đúp của anh, giúp anh trở thành cầu thủ Tây Ban Nha thứ năm ghi được 5 bàn thắng tại World Cup. Tuy nhiên, anh đã bỏ lỡ thời cơ lập riêng hat-trick cho mình khi sút hỏng quả penalty, do đó cũng trở thành cầu thủ Tây Ban Nha tiên phong đá hỏng một quả penalty ở World Cup. [ 77 ]Villa giúp Tây Ban Nha giành suất vào vòng đấu loại trực tiếp khi ghi bàn mở tỉ số trong thắng lợi 2-1 trước Chile. [ 78 ] Bàn thắng này giúp anh trở thành cầu thủ Tây Ban Nha ghi nhiều bàn thắng nhất qua những kỳ World Cup, phá vỡ kỷ lục cũ 5 bàn thắng của Emilio Butragueño, Fernando Hierro, Fernando Morientes và Raúl González. [ 79 ]Đến trận đấu vòng 1/16 với Bồ Đào Nha, Villa liên tục trở thành người hùng cho Tây Ban Nha khi ghi bàn thắng duy nhất của trận đấu. [ 80 ] Trong trận tứ kết với Paraguay, bàn thắng ở phút 83 của anh đã chính thức đưa Tây Ban Nha vào bán kết gặp đội tuyển Đức. [ 81 ]David Villa kết thúc World Cup 2010 với 5 bàn thắng sau khi không ghi bàn ở trận bán kết và chung kết, tuy nhiên anh đã góp công lớn đưa Tây Ban Nha lần đầu đăng quang ngôi vô địch quốc tế. Kết thúc giải đấu anh giành thương hiệu Quả bóng đồng và Chiếc giày bạc ( có cùng số bàn thắng với Thomas Müller của Đức nhưng Müller có số thiết kế thành bàn nhiều hơn ). [ 82 ]

Vòng loại Euro 2012 và bỏ lỡ vòng chung kết[sửa|sửa mã nguồn]

Trong trận đấu tiên phong của Tây Ban Nha tại Vòng loại Euro 2012 với Liechtenstein ngày 3 tháng 9 năm 2010, Villa đã một bàn thắng. Bàn thắng này tưởng đã cân đối kỷ lục ghi bàn tại tuyển Tây Ban Nha của Raúl, tuy nhiên do FIFA xác lập bàn thắng trong thắng lợi 6-0 của Tây Ban Nha trước Ba Lan thực ra là do Dariusz Dudka phản lưới nhà, do đó số bàn thắng của anh vẫn là 43. [ 83 ] Ngày 12 tháng 10 năm 2010, anh đã cân đối kỷ lục của Raúl với bàn thắng của anh trong thắng lợi 3-2 trước Scotland tại Hampden Park .Villa chính thức phá vỡ kỷ lục ghi bàn tại đội tuyển vương quốc của Raúl ngày 25 tháng 3 năm 2011, khi ghi cú đúp trong thắng lợi 2-1 trước Cộng hòa Séc. [ 84 ]Ngày 7 tháng 9 năm 2011, Villa lập cú đúp trong thắng lợi 6-0 trước Liechtenstein. [ 85 ] Anh kết thúc vòng loại Euro 2012 với bàn thắng thứ 50 trong màu áo đội tuyển vương quốc trong trận đấu với Scotland. Đây cũng là trận đấu tiên phong Villa mang băng đội trưởng Tây Ban Nha. [ 86 ] Villa có tổng số 7 bàn thắng tại vòng loại Euro 2012, tuy nhiên do chấn thương khi tranh tài cho Barcelona, anh đã không hề tham gia Euro 2012 .

Confederation Cup 2013 và vòng loại World Cup năm trước[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi Tây Ban Nha vô địch Euro 2012, David Villa trở lại đội tuyển trong trận giao hữu với Ả Rập Saudi và ghi bàn chỉ 10 phút sau đó. [ 87 ]Ngày 3 tháng 6 năm 2013, Vicente Del Bosque đã đưa Villa vào list đội tuyển Tây Ban Nha tham gia Confederations Cup 2013. [ 88 ] Tại giải đấu này, anh đã ghi ba bàn trong thắng lợi 10-0 trước Tahiti. [ 89 ]

World Cup năm trước[sửa|sửa mã nguồn]

Villa có tên trong list 23 cầu thủ Tây Ban Nha tham gia World Cup năm trước tại Brasil. [ 90 ] Trước khi giải đấu mở màn, anh đã công bố sẽ chia tay đội tuyển vương quốc sau khi World Cup năm trước kết thúc. [ 91 ] Tây Ban Nha đã bị loại ngay sau vòng bảng. Villa không được ra sân trong hai trận đấu tiên phong với Hà Lan và Chile và chỉ được tranh tài 56 phút trong trận ở đầu cuối với Úc, tuy nhiên chính anh là người đã ghi bàn mở tỉ số trong thắng lợi 3-0 của Tây Ban Nha [ 92 ] và được FIFA bầu chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu. [ 93 ] Villa đã bật khóc trên băng ghế kỹ thuật vì bị huấn luyên viên Del Bosque thay ra giữa chừng và sau trận đấu, huấn luyện viên đội tuyển Tây Ban Nha đã phát biểu : ” Tôi đã không biết rằng đây sẽ là trận đấu ở đầu cuối của cậu ấy. Tôi hiểu sự tuyệt vọng của Villa, hẳn là cậu ấy không dễ chịu với tôi. ” [ 94 ]Vào tháng 12 năm năm ngoái, Villa bật mý rằng anh ấy đang xem xét việc lùi thời hạn nghỉ hưu ở quốc tế .

Vòng loại World Cup 2018[sửa|sửa mã nguồn]

Vào ngày 25 tháng 8 năm 2017, Villa được đưa vào list đội tuyển Tây Ban Nha tham gia những trận đấu vòng loại World Cup 2018 với Ý và Liechtenstein, ba năm sau khi từ giã sự nghiệp tranh tài quốc tế .

Kế thừa Raúl số áo 7 tại đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Giới tiếp thị quảng cáo Tây Ban Nha thường so sánh Villa với Raúl, đến mức Villa bị buộc tội lấy áo số 7 của cầu thủ Real Madrid lúc bấy giờ. Vào tháng 3 năm 2009, Villa đã lên tiếng san sẻ : ” Tôi không lấy bất kể điều gì từ bất kể ai, tôi chỉ đơn thuần là đang chơi tốt cho câu lạc bộ của mình và huấn luyện viên vương quốc đã cho tôi một thời cơ. Đã có quá nhiều người nói về yếu tố số lượng. Tôi Không muốn gây ra bất kể tranh cãi nào. Trên thực tiễn, tôi và Raúl đã cùng nhau tham gia đội tuyển vương quốc trong quá khứ. Tôi không ép ai cả. ” Khi được hỏi về việc liệu hàng loạt sự náo động được tạo ra vì sự thiếu sót của Raúl có ảnh hưởng tác động đến cá thể anh ấy hay không, anh ấy nói, ” Tôi chưa khi nào thích nó vì tôi nghĩ nó có hại cho cả hai chúng tôi. Chúng tôi luôn hòa thuận với nhau bất kể khi nào chúng tôi ” đã đi làm trách nhiệm quốc tế, vì thế tôi không lo ngại. Tôi chỉ thao tác chịu khó cho bản thân. Tất cả những gì tôi muốn là xuất hiện trong đội hình trong mọi trận đấu, có huy hiệu Tây Ban Nha trên ngực và ghi nhiều bàn thắng nhất hoàn toàn có thể. “Vào tháng 2 năm 2010, Bernd Schuster được hỏi liệu Raúl có không ủng hộ việc Villa chuyển đến Real Madrid hay không, anh vấn đáp : ” Tôi bị ho “, khiến nhiều người tin rằng anh đang ám chỉ lời đồn thổi là thực sự. Villa nhất quyết chế nhạo quan điểm ​ ​ đó khi nói, ” Không thể nào một cầu thủ đẳng cấp và sang trọng trong và ngoài sân cỏ như Raúl lại nói xấu tôi. Tôi luôn có mối quan hệ tốt với Raúl, mặc dầu chúng tôi chẳng mấy khi cung ứng trách nhiệm quốc tế. ” Phát biểu về kỷ lục của Raúl với đội tuyển vương quốc Tây Ban Nha với tư cách là cầu thủ ghi bàn số 1 của quốc giaVilla nói, ” Tôi đã có 25 bàn thắng nhưng anh ấy đã có 44 bàn và vẫn đang tranh tài. Tôi rất vui khi đạt được số lượng đó vì tôi đã giúp đội tuyển vương quốc đạt được những thắng lợi tuyệt vời và trong nhiều năm nữa, tôi hoàn toàn có thể nhìn thấy tên tôi trên [ list cầu thủ ghi bàn ] mà một chàng trai trẻ khác đang cố gắng nỗ lực vượt mặt. Điều đó thật tuyệt. ” Vào ngày 25 tháng 3 năm 2011, hai năm sau khi đưa ra nhận xét đó, Villa đã vượt qua Raúl để trở thành cầu thủ ghi bàn nhiều nhất mọi thời đại của Tây Ban Nha .

Phong cách tranh tài[sửa|sửa mã nguồn]

Là một tay săn bàn lão luyện, Villa được những chuyên viên coi là một trong những tiền đạo xuất sắc nhất trong thế hệ của anh ấy và là một trong những tiền đạo Tây Ban Nha xuất sắc nhất mọi thời đại. Là một cầu thủ thời cơ, linh động và giỏi tổng lực, Villa bẩm sinh thuận chân phải, nhưng là người dứt điểm đúng mực và uy lực bằng cả hai chân, do sự khôn khéo của anh ấy, cả trong và ngoài khu vực, mặc dầu anh ta không có chiều cao hoặc sức khỏe thể chất ; anh ấy cũng là một chuyên viên xây đắp và sút phạt. Villa là một cầu thủ nhanh gọn, nhanh gọn và cơ động, với kỹ thuật và kỹ năng và kiến thức rê bóng tuyệt vời, người còn được biết đến với vận tốc thao tác và chuyển dời tiến công mưu trí, cũng như năng lực tạo khoảng trống cho đồng đội hoặc thực thi những đợt tiến công. diện tích quy hoạnh. Nhờ tầm nhìn và năng lực chuyền bóng, anh ấy cũng có năng lực lùi sâu để link lối chơi với những tiền vệ, tạo thời cơ và tương hỗ đồng đội, điều này đã được cho phép anh ấy được tiến hành như một tiền đạo tương hỗ, một tiền vệ tiến công hoặc một cầu thủ chạy cánh trong suốt sự nghiệp của mình, ngoài vai trò phổ cập hơn của anh ấy là tiền đạo TT .

Thống kê sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ Mùa giải Giải vô địch Cúp quốc gia[95] Cúp châu Âu[96] Tổng cộng
Hạng đấu Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng Số trận Bàn thắng
Sporting Gijón 2000–01 Segunda División B 1 0 1 0
2001–02 40 18 4 2 44 20
2002–03 39 20 1 1 40 21
Tổng cộng 80 38 5 3 0 0 85 41
Zaragoza 2003–04 Segunda División 38 17 8 4 46 21
2004–05 35 15 3 0 10 3 48 18
Tổng cộng 73 32 11 4 10 3 94 39
Valencia 2005–06 La Liga 37 25 4 2 6 1 47 28
2006–07 36 15 2 0 11 5 49 20
2007–08 28 18 6 1 7 3 41 22
2008–09 33 28 5 2 5 1 43 31
2009–10 32 21 2 0 11 7 45 28
Tổng cộng 166 107 19 5 40 17 225 129
Barcelona 2010–11 La Liga 34 18 6 1 12 4 52 23
2011–12 15 5 3 1 6 3 24 9
2012–13 28 10 5 5 10 1 43 16
Tổng cộng 77 33 14 7 28 8 119 48
Atlético Madrid 2013–14 La Liga 36 13 4 2 7 0 47 15
Tổng cộng 36 13 4 2 7 0 47 15
Melbourne City (mượn) 2014–15 A-League 4 2 0 0 4 2
New York City 2015 Major League Soccer 30 18 0 0 30 18
2016 35 23 2 0 35 23
2017 31 22 3 2 34 24
2018 23 14 4 1 27 15
Tổng cộng 117 77 9 3 126 80
Vissel Kobe 2019 J1 League 28 13 1 0 29 13
Tổng cộng sự nghiệp 617 329 63 24 85 28 765 381

Bàn thắng cho đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Cập nhật : 20 tháng 6 năm 2013 .

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Real Zaragoza
Valencia
  • Supercopa de España: 2008
Barcelona
Atlético Madrid
  • FIFA FIFPro World11 : 2010
  • Đội hình xuất sắc nhất năm của UEFA : 2010
  • Chiếc giày bạc FIFA World Cup 2010
  • Quả bóng đồng FIFA World Cup 2010
  • Đội bóng trong mơ FIFA World Cup 2010
  • Cầu thủ xuất sắc nhất World Cup 2010 : Tây Ban Nha vs Honduras
  • Chiếc giày vàng UEFA Euro 2008
  • Đội hình tiêu biểu của UEFA Euro 2008
  • Cầu thủ xuất sắc nhất VCK Euro 2008 : Tây Ban Nha vs Nga, Tây Ban Nha vs Thụy Điển
  • Chiếc giày đồng FIFA Confederations Cup 2009
  • 2009 FIFA Confederations Cup Đội của Giải đấu .
  • Cầu thủ Tây Ban Nha xuất sắc nhất năm : 2005–06
  • Zarra Trophy : 2005–06, 2006–07, 2008–09, 2009–10
  • USSA Nam vận động viên của năm : 2010
  • Giải MLS MVP : 2016
  • Giải thưởng ESPY Cầu thủ MLS xuất sắc nhất : 2017
  • Giải MLS XI : 2016,  2017
  • MLS All-Star : 2015,  2016, 2017,  2018
  • Ride of Fame : tháng 9 năm 2015
  • Cầu thủ sáng giá nhất NYCFC : 2015,  2016,  2017
  • Mục tiêu của năm của NYCFC : 2015
  • Cầu thủ tấn công của năm của NYCFC : 2016
  • Cầu thủ xuất sắc nhất giải MLS : Tháng 6 năm 2017
  • Cầu thủ xuất sắc nhất giải MLS 2015: Tuần 2, Tuần 15
  • Cầu thủ xuất sắc nhất của NYCFC Etihad Airways: Tháng 7 năm 2015,  Tháng 4 năm 2016,  Tháng 9 năm 2016,  Tháng 11 năm 2017
  • Mục tiêu của năm tại J1 League : 2019
  • Vua phá lưới Valencia : 2005–06, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2009–10
  • Cầu thủ hỗ trợ hàng đầu La Liga : 2006–07
  • Vua phá lưới mọi thời đại Tây Ban Nha: 59 bàn
  • Vua phá lưới mọi thời đại của Tây Ban Nha trong các trận đấu tại FIFA World Cup : 9 bàn
  • Vua phá lưới mọi thời đại của New York City FC : 80 bàn
  • Bàn thắng nhiều nhất trong một kỳ World Cup (của một tuyển thủ Tây Ban Nha): 5 bàn trong năm 2010
  • Số bàn thắng ghi được nhiều nhất trong một năm dương lịch (của một tuyển thủ Tây Ban Nha): 12 bàn (2008, 2009)
  • Số trận ghi bàn nhiều nhất (của một tuyển thủ Tây Ban Nha): 6

Đồ trang trí

[sửa|sửa mã nguồn]

  • Giải thưởng Prince of Asturias : 2010
  • Huy chương vàng của Huân chương Thể thao Hoàng gia : 2011

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://vvc.vn
Category : Thể thao

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay