So sánh quy định về quyền tác giả trong công ước berne, Hiệp định Trips, pháp – Tài liệu text

So sánh quy định về quyền tác giả trong công ước berne, Hiệp định Trips, pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.02 KB, 7 trang )

SO SÁNH
QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TÁC GIẢ TRONG CÔNG ƯỚC BERNE, HIỆP ĐỊNH TRIPS
VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
1. Giống nhau:
Trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả, do những nỗ lực của Việt Nam trong việc sửa đổi những
quy định của pháp luật cho phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế nên những quy định của
pháp luật Việt Nam tương đối giống những quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên.
Thứ nhất, về thời điểm phát sinh quyền tác giả. Trong các Điều ước quốc tế Việt Nam là thành
viên cũng như trong pháp luật Việt Nam đều quy định thời điểm phát sinh quyền tác giả sau khi
tác phẩm được hoàn thành. Theo đó một tác phẩm được bảo hộ khi nó được thể hiện ra bên ngoài
thông qua 1 hình thức vật chất nhất định mà không quan tâm đến nội dung, chất lượng của tác
phẩm đó ra sao, đã được công bố hay chưa.
Thứ hai, có những quy định chi tiết về điều kiện bảo hộ đối với một tác phẩm,tác giả. Theo đó
tác phẩm được bảo hộ không phải thông qua bất cứ thủ tục hành chính nào, tác phẩm được bảo
hộ đồng thời với thời điểm phát sinh quyền tác giả. Việc tác giả đăng ký quyền tác giả của mình
với các tổ chứ về sở hữu trí tuệ chỉ nhằm đảm bảo việc hơn những quyền của mình liên quan đến
tác phẩm mà không phải là căn cứ duy nhất xác định tác giả của một tác phẩm.
Thứ ba, quy định về thời hạn bảo hộ. Nhằm đảm bảo quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm
cũng như đảm bảo sự công bằng hài hòa với các lợi ích xã hội, các quy định trong các điều ước
quốc tế liên quan đến việc bảo hộ quyền tác giả cũng như trong luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đều
quy định thời hạn bảo hộ khác nhau đối với từng loại tác phẩm.Theo đó, thời hạn bảo hộ quyền
tác giả đối một tác phẩm văn học trong công ước Berne và điều 27 Luật SHTT 2009 đều quy
định là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau thời điểm tác giả qua đời. Quy định này nhằm đảm
bảo phần nào lợi ích kinh tế của những người thừa kế của tác giả. Đồng thời một số quyền nhân
thân (hay quyền tinh thần theo quy định của Công ước Berne) thì được bảo hộ mãi mãi và không
ai có quyền xâm phậm tới những quyền này.
Thứ tư, quy định chi tiết về các loại tác phẩm được bảo hộ, các tác phẩm không được bảo hộ.
Trong các Điều ước quốc tế Việt Nam tham gia liên quan đến vấn đề này và pháp luật dân sự
Việt Nam đều sử dụng phương pháp liệt kê những tác phẩm được bảo hộ. Nhìn chung quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam khá tương thích so với các quy định của Điều ước quốc tế Việt

Nam tham gia về các tác phẩm được bảo hộ.
Bên cạnh đó, việc bảo hộ quyền tác giả chỉ đặt ra giới hạn những tác phẩm nhất định, theo đó chỉ
những tác phẩm được quy định trong văn bản pháp luật về bảo hộ quyền tác giả mới nhận được
sự bảo hộ từ chính quyền. Đồng thời không phải mọi tác phẩm đều được bảo hộ, có những tác
phẩm cũng là những sản phẩm trí tuệ, hàm chứa trong đó sự sáng tạo nhưng không được bảo hộ
do những lí do nhất định.
Thứ năm, quy định cụ thể về nội dung bảo hộ hay nội dung của quyền tác giả chủ sở hữu. Nhằm
đảm bảo quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm các điều ước quốc tế cũng như pháp luật dân
sự Việt Nam quy định một cách cụ thể, đầy đủ nội dung quyền tác giả trong các văn bản pháp
luật. Quy định nhằm tạo điều kiện để tác giả, chủ sở hữu thông qua đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình.
Thứ sáu, quy định về thực thi quyền tác giả. Việc quy định các quyền của tác giả đối với tác
phẩm sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có cơ chế thực thi nhằm bảo vệ quyền lợi tác giả trước
sự xâm phạm của các chủ thể khác. Theo đó tác giả hoặc chủ sở hữu của tác phẩm đều có quyền
khởi kiện người vi phạm tác phẩm của mình trước tòa án quốc gia thành viên.
2. Sự khác nhau:
Tiêu
chí
Bảo hộ quyền tác giả trong Công
ước Berne
Bảo hộ quyền tác giả trong Hiệp
định TRIPS
Bảo hộ quyền tác giả trong
luật Việt Nam
Phạm
vi
Một trong những nguyên tắc quan
trọng trong công ước Berne cũng
như nhiều điều ước quốc tế khác
đó là nguyên tắc đối xử quốc gia.

Do đó bảo hộ quyền tác giả không
chỉ giới hạn trong các nước thành
viên, các tổ chức, cá nhân quốc gia
thành viên là chủ sở hữu, tác giả
của tác phẩm còn được bảo hộ
bằng pháp luật của các quốc gia
thành viên Điều ước trên phạm vi
lãnh thổ của chính quốc gia đó.
Điều 3 : Mỗi Thành viên phải chấp nhận
cho các công dân của các Thành viên khác
sự đối xử không kém thiện chí hơn so với sự
đối xử của Thành viên đó đối với công dân
của mình trong việc bảo hộ sở hữu trí
tuệ[3], trong đó có lưu ý tới các ngoại lệ đã
được quy định tương ứng trong Công ước
Paris (1967), Công ước Berne (1971),
Công ước Rome và Hiệp ước về sở hữu trí
tuệ đối với mạch tích hợp. Đối với những
người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm
và các tổ chức phát thanh truyền hình,
nghĩa vụ này chỉ áp dụng với các quyền
được quy định theo Hiệp định này. Bất kỳ
Thành viên nào sử dụng các quy định tại
Điều 6 Công ước Berne và khoản 1(b) Điều
16 Công ước Rome cũng phải thông báo
như đã nêu trong các điều khoản nói trên
cho Hội đồng TRIPS.
Các Thành viên chỉ có thể sử dụng các
ngoại lệ nêu tại khoản 1 liên quan đến các
thủ tục xét xử và hành chính, kể cả việc chỉ

định địa chỉ dịch vụ hoặc bổ nhiệm đại diện
trong phạm vi quyền hạn của một Thành
viên, nếu những ngoại lệ đó là cần thiết để
bảo đảm thi hành đúng các luật và quy định
không trái với các quy định của Hiệp định
Pháp luật dân sự Việt Nam,
đặt biệt là Luật SHTT chủ
yếu bảo vệ quyền lợi của
các tổ chức cá nhân trên
lãnh thổ Việt Nam.
này và nếu cách tiến hành các hoạt động đó
không là một sự hạn chế trá hình hoạt
động thương mại.
Đối
tượng
Công ước Berne liệt kê các tác
phẩm được bảo hộ mang tính chất
“mở” cho các thể loại tác phẩm
mới trong tương lai bên cạnh các
thể loại tác phẩm hiện có.
“mọi sản phẩm trong lĩnh vực văn
học, khoa học và nghệ thuật,
không phân biệt phương thức và
hình thức thể hiện”
Đối tượng được bảo hộ quyền tác
giả được ghi nhận ở nhiều văn bản
pháp luật quốc tế khác nhau, các
điều ước quốc tế này có thể bổ
sung cho nhau về loại đối tượng
được bảo hộ.

Về đối tượng được bảo hộ, theo
ghi nhận tại Điều 9, Hiệp định
TRIPs bảo hộ tất cả các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học
được vật chất hóa đã được liệt kê
tại Điều 2 của Công ước Berne
ví dụ như: như sách các bài
giảng, bài phát biểu, bài thuyết
giáo; các tác phẩm kịch, hay
nhạc kịch, các tác phẩm hoạt
cảnh và kịch câm, các bản nhạc
có lời hay không lời, các tác
phẩm điện ảnh trong đó có các
tác phẩm tương đồng được thể
hiện bằng một quy trình tương tự
quy trình điện ảnh, các tác phẩm
đồ họa, hội họa, kiến trúc, điêu
khắc, có thể bảo hộ một số tác
phẩm là công văn của Nhà nước
về hành pháp, tư pháp, không
bảo hộ đối với các tác phẩm
mang tính chất thời sự thuần túy,
mang tính thông tin, báo chí và
theo Điều 9.2của Hiệp định
Trips, các ý tưởng, thủ tục và
phương thức điều hành hoặc
khái niệm toán học khôngđược
bảo hộ quyền tác giả.
Ngoài ra, Hiệp định TRIPS đã có
Luật SHTT Việt Nam lại

quy định “đóng” đối với
những tác phẩm được nhà
nước thông qua việc liệt kê
cứng nhắc các thể loại tác
phẩm.
Đối tượng được bảo hộ
được quy định, liệt kê
chính thức tại một văn bản
là luật SHTT 2009.
Khoản 1 điều 22 Luật Sở
hữu trí tuệ (SHTT) quy
định: “Chương trình máy
tính (CTMT) là tập hợp
các chỉ dẫn được thể hiện
dưới dạng các lệnh, các
mã, lược đồ hoặc bất kỳ
dạng nào khác, khi gắn
vào một phương tiện mà
máy tính đọc được, có khả
năng làm cho máy tính
thực hiện được một công
việc hoặc đạt được một kết
quả cụ thể. CTMT được
bảo hộ như tác phẩm văn
học, dù được thể hiện dưới
dạng mã nguồn hay mã
máy”, đồng thời khoản 2
điều 59 Luật SHTT quy
định loại trừ cấp bằng độc
quyền sáng chế (patent)

sự bổ sung tác phẩm được bảo
hộ cho Công Ước Berne đối với
phần mềm máy tính dù dưới
dạng mã nguồn hay mã máy đều
phải được bảo hộ theo như tác
phẩm văn học theo Công ước
Berne ( Điều 10).
cho CTMT, như vậy pháp
luật Việt Nam quy định chỉ
bảo hộ quyền tác giả đối
với CTMT.
Quyền
của tác
giả
Trong Công ước Berne các quyền
tác giả được quy định thành các
quyền tinh thần và quyền kinh tế
độc lập với nhau. Đồng thời không
có quy định nào là quyền tinh
thần, quyền nào là quyền kinh tế.
Điều 6bis vá Điều 14ter quy định
về quyền tinh thần, các quyền còn
lại được hiểu là quyền kinh tế.
Công ước Berne quy định về
quyền tiếp theo đối với tác phẩm
mỹ thuật và bản thảo viết
tay( Điều 14ter).
Về các quyền được bảo hộ, Hiệp
định bảo hộ tất cả các quyền của
tác giả trừ các quyền được cấp

theo hoặc phát sinh trên cơ sở
quy định tại Điều 6 bis của Công
ước Berne. Theo Điều 6bis, đó là
các quyền tinh thần phát sinh
trên cơ sở quyền đứng tên tác giả
độc lập với quyền kinh tế của tác
giả như: quyền phản đối bất kì
sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi
hoặc nhưng vi phạm khác đối
với tác phẩm có thể làm phương
hại đến danh dự, tiếng tăm của
tác giả sau khi quyền này được
chuyển nhượng. Ngoài ra còn có
các quyền phát sinh sau khi tác
giả chết theo quy định tại khoản
2 Điều 6 bis.
Pháp luật Việt Nam lại
phân chia quyền tác giả bao
gồm quyền nhân thân và
quyền tài sản. Đồng thời
trong cả luật sân sự 2005
và luật SHTT VN đều quy
định cụ thể về quyền nhân
thân và quyền tác giả gồm
những quyền gì.
Pháp luật dân sự Việt Nam
không quy định về quyền
tiếp theo.
Điều
kiện

bảo hộ
Điều 3 CƯ Berne: Tác phẩm của
các tác giả là công dân của một
trong những nước là thành viên
của Liên hiệp hoặc cư trú ở các
quốc gia thành viên cho dù những
các tác phẩm của họ đã công bố
hay chưa; Tác phẩm của các tác
giả không phải là công dân của
một trong những nước là thành
viên của Liên hiệp mà công bố lần
đầu tiên ở một trong những nước
thành viên của Liên hiệp, hay đồng
Thừa nhận tuân thủ các điều kiện
này theo Công ước Berne về
điều kiện bảo hộ cho tác phẩm
của các tác giả.
Pháp luật Việt Nam cũng
quy định việc bảo hộ quyền
tác giả không cần thiêt phải
thực hiện bất kỳ thủ tục
hành chính nào. Tuy nhiên
tại khoản 1 Điều 8 Luật
SHTT 2009 quy định
không bảo hộ các đối
tượng sở hữu trí tuệ trái với
đạo đức xã hội, trật tự công
cộng có hại cho quốc
phòng an ninh. Như vậy
khác với các quy định

thời công bố ở một nước trong và
một nước ngoài Liên hiệp.
Các tác phẩm được bảo hộ trong
Tư pháp Việt Nam khi được ấn
định trên một hình thái vật chất
nhất định mà không cần trải qua
bất kỳ sự kiểm tra hay cho phép
nào về mặt nội dung và hình thức.
Việc bảo hộ là độc lập đối với chất
lượng hoặc giá trị kèm theo tác
phẩm. Nói một cách khác việc bảo
hộ quyền tác giả đối với một tác
phẩm không phụ thuộc vào nội
dung tác phẩm đó.
trong tư pháp quốc tế Việt
Nan, một tác phẩm có được
bảo hộ hay không còn phụ
thuộc vào nội dung tác
phẩm có trái với đạo đức
xã hội, trật tự công cộng
hay không.
Thực
thi
quyền
tác giả
Trong Tư pháp quốc tế Việt Nam,
các tác giả hoặc chủ sở hữu của tác
phẩm có thể thực hiện quyền của
mình tại nhiều quốc gia thành viên
của điều ước. Đồng thời cùng với

việc đăng ký quyền tác giả, việc
yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm
quyền lợi của tác giả có thể được
tiến hành ở các cơ quan nhà nước
của nhiều quốc gia thành viên của
Điều ước.
Về các quyền của tác giả đối với
tác phẩm. Theo quy định của
Công ước tác giả được bảo hộ sẽ
có quyền đối với việc dịch, sao
chép tác phẩm trừ một số trường
hợp ngoại lệ đặc biệt các tác
phẩm có thể được phép sao chép,
miễn sao không làm phương hại
đến những quyền lợi hợp pháp
của tác giả. Tác phẩm cũng có
thể được sử dụng tự do có mục
đích một cách hợp pháp và phù
hợp với thông lệ đúng đắn như
việc sử dụng tác phẩm để trích
dẫn, minh họa phục vụ cho việc
giảng dạy. Các quy định này
được ghi nhận cụ thể từ Điều 9
đến Điều 14 công ước Berne, tại
Điều 14 của hiệp định Trips có
cụ thể đối với việc bảo hộ những
ngừơi biểu diễn, người sản xuất
bản ghi âm và các tổ chức phát
hành truyền hình với các bài biểu
diễn, bản ghi âm và chương trình

phát sóng. Hiệp định TRIPS quy
Tác giả, chủ sở hữu của tác
phẩm thực thi quyền tác giả
của mình thông qua cơ
quan có thẩm quyền ở Việt
Nam.
định người biểu diễn có quyền
ngăn cản việc thu, tái bản, phát
trên phương tiện vô tuyến
chương trình biểu diễn của mình
mà không xin phép. Người sản
xuất chương trình thu thanh có
quyền cho phép hoặc cấm tái bản
trực tiếp hoặc gián tiếp chương
trình thu thanh của mình. Các tổ
chức phát thanh truyền hình có
quyền cấm thu, tái bản và phát
lại trên phương tiện vô tuyến
chương trình truyền hình của
mình mà không xin phép.
Thời
hạn
bảo hộ
Điều 7 CƯ Berne Tuân thủ các quy định của Công
ước Berne.Điều 12 Hiệp định
TRIPS quy định: Bảo hộ suốt
đời và 50 năm sau khi tác giả
qua đời trừ đối với tác phẩm
nhiếp ảnh và các tác phẩm mỹ
thuật ứng dụng thời hạn bảo hộ ít

nhất là 25 năm kể từ ngày tác
phẩm được thực hiện,còn lại các
tác phẩm khác không được tính
thời hạn bảo hộ thì sẽ được bảo
hộ ít nhất 50 năm kể từ ngày phổ
cập tác phẩm đến công chúng
hoặc tính từ ngày tác phẩm được
thực hiện.
Thời hạn bảo hộ đối với người
biểu diễn và người sản xuất
chương trình thu thanh là ít nhất
50 năm, đối với các tổ chức phát
thanh truyền hình là 20 năm tính
từ ngày cuối của năm diễn ra
chương trình biểu diễn hoặc
chương trình được thu thanh,
truyền hình.
Điều 27 Luật SHTT
Việt Nam
3. Kết luận: ( kiểu như tóm lại á)
Công ước Berne đã tạo ra một khung pháp lý, tạo cơ sở cho Việt Nam hoàn thiện hệ thống
luật về bảo hộ quyền tác giả (Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự) phù hợp với các điều ước quốc
tế, tạo ra môi trường pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế một cách toàn diện. Việc gia nhập
Công ước Berne mở ra cho các tác giả, chủ sở hữu các tác phẩm, các nhà đầu tư tài chính và dịch
vụ trong lĩnh vực này của Việt Nam có thể thuận tiện trong việc chuyển giao quyền tác giả của
các các loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học có lợi thế.
Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ TRIPS có
những quy định liên quan đến phạm vi các loại quyền SHTT rộng hơn, bao quát hơn.TRIPS đặt
ra những yêu cầu bảo hộ ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia đang phát triển hay
kém phát triển thì những yêu cầu bảo hộ SHTT này vẫn còn cao, Việt Nam cũng không là ngoại

lệ. Ngoài ra, các nước Thành viên hoàn toàn có quyền thiết lập những quy định ở mức cao hơn
miễn không trái với quy định của TRIPS. Đây cũng chính là điểm mà các nước phát triển đã lợi
dụng để dùng sức ép đối với các nước đang phát triển để ký những Hiệp định song phương theo
đó việc bảo hộ giành cho nhau luôn ở mức cao hơn quy định tối thiểu của TRIPS.
Pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật SHTT có nhiều quy định chi tiết hơn so với các điều
ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả mà chúng ta tham gia. Tuy nhiên, do chúng ta là một quốc
gia phát triển nên vẫn có những quy định chưa phù hợp với quy định trong cá điều ước quốc tế,
cũng như còn nhiều thiếu sót. Thêm vào là ý thức người dân Việt Nam trong việc tôn trọng
quyền tác giả còn rất kém. Do đó bên cạnh việc tiến hành sửa đổi bổ sung những quy định của
pháp luật cho phù hợp với điều ước quốc tế, chúng ta cần phải có chiến dịch tuyên truyền thay
đổi nhận thức của người dân nhằm đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế trên thực tế.
Nam tham gia về những tác phẩm được bảo lãnh. Bên cạnh đó, việc bảo lãnh quyền tác giả chỉ đặt ra số lượng giới hạn những tác phẩm nhất định, theo đó chỉnhững tác phẩm được pháp luật trong văn bản pháp lý về bảo lãnh quyền tác giả mới nhận đượcsự bảo lãnh từ chính quyền sở tại. Đồng thời không phải mọi tác phẩm đều được bảo lãnh, có những tácphẩm cũng là những loại sản phẩm trí tuệ, hàm chứa trong đó sự phát minh sáng tạo nhưng không được bảo hộdo những lí do nhất định. Thứ năm, lao lý đơn cử về nội dung bảo lãnh hay nội dung của quyền tác giả chủ chiếm hữu. Nhằmđảm bảo quyền hạn của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm những điều ước quốc tế cũng như pháp lý dânsự Nước Ta pháp luật một cách đơn cử, vừa đủ nội dung quyền tác giả trong những văn bản phápluật. Quy định nhằm mục đích tạo điều kiện kèm theo để tác giả, chủ sở hữu trải qua đó bảo vệ quyền hạn hợp phápcủa mình. Thứ sáu, lao lý về thực thi quyền tác giả. Việc pháp luật những quyền của tác giả so với tácphẩm sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có chính sách thực thi nhằm mục đích bảo vệ quyền hạn tác giả trướcsự xâm phạm của những chủ thể khác. Theo đó tác giả hoặc chủ sở hữu của tác phẩm đều có quyềnkhởi kiện người vi phạm tác phẩm của mình trước TANDTC vương quốc thành viên. 2. Sự khác nhau : TiêuchíBảo hộ quyền tác giả trong Côngước BerneBảo hộ quyền tác giả trong Hiệpđịnh TRIPSBảo hộ quyền tác giả trongluật Việt NamPhạmviMột trong những nguyên tắc quantrọng trong công ước Berne cũngnhư nhiều điều ước quốc tế khácđó là nguyên tắc đối xử vương quốc. Do đó bảo lãnh quyền tác giả khôngchỉ số lượng giới hạn trong những nước thànhviên, những tổ chức triển khai, cá thể quốc giathành viên là chủ sở hữu, tác giảcủa tác phẩm còn được bảo hộbằng pháp lý của những quốc giathành viên Điều ước trên phạm vilãnh thổ của chính quốc gia đó. Điều 3 : Mỗi Thành viên phải chấp nhậncho những công dân của những Thành viên khácsự đối xử không kém thiện chí hơn so với sựđối xử của Thành viên đó so với công dâncủa mình trong việc bảo lãnh sở hữu trítuệ [ 3 ], trong đó có chú ý quan tâm tới những ngoại lệ đãđược lao lý tương ứng trong Công ướcParis ( 1967 ), Công ước Berne ( 1971 ), Công ước Rome và Hiệp ước về sở hữu trítuệ so với mạch tích hợp. Đối với nhữngngười trình diễn, người sản xuất bản ghi âmvà những tổ chức triển khai phát thanh truyền hình, nghĩa vụ và trách nhiệm này chỉ vận dụng với những quyềnđược lao lý theo Hiệp định này. Bất kỳThành viên nào sử dụng những pháp luật tạiĐiều 6 Công ước Berne và khoản 1 ( b ) Điều16 Công ước Rome cũng phải thông báonhư đã nêu trong những lao lý nói trêncho Hội đồng TRIPS.Các Thành viên chỉ hoàn toàn có thể sử dụng cácngoại lệ nêu tại khoản 1 tương quan đến cácthủ tục xét xử và hành chính, kể cả việc chỉđịnh địa chỉ dịch vụ hoặc chỉ định đại diệntrong khoanh vùng phạm vi quyền hạn của một Thànhviên, nếu những ngoại lệ đó là thiết yếu đểbảo đảm thi hành đúng những luật và quy địnhkhông trái với những pháp luật của Hiệp địnhPháp luật dân sự Nước Ta, đặt biệt là Luật SHTT chủyếu bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ củacác tổ chức triển khai cá thể trênlãnh thổ Nước Ta. này và nếu cách thực thi những hoạt động giải trí đókhông là một sự hạn chế trá hình hoạtđộng thương mại. ĐốitượngCông ước Berne liệt kê những tácphẩm được bảo lãnh mang đặc thù “ mở ” cho những thể loại tác phẩmmới trong tương lai bên cạnh cácthể loại tác phẩm hiện có. “ mọi mẫu sản phẩm trong nghành vănhọc, khoa học và thẩm mỹ và nghệ thuật, không phân biệt phương pháp vàhình thức biểu lộ ” Đối tượng được bảo lãnh quyền tácgiả được ghi nhận ở nhiều văn bảnpháp luật quốc tế khác nhau, cácđiều ước quốc tế này hoàn toàn có thể bổsung cho nhau về loại đối tượngđược bảo lãnh. Về đối tượng người tiêu dùng được bảo lãnh, theoghi nhận tại Điều 9, Hiệp địnhTRIPs bảo lãnh tổng thể những tác phẩmvăn học, nghệ thuật và thẩm mỹ, khoa họcđược vật chất hóa đã được liệt kêtại Điều 2 của Công ước Berneví dụ như : như sách những bàigiảng, bài phát biểu, bài thuyếtgiáo ; những tác phẩm kịch, haynhạc kịch, những tác phẩm hoạtcảnh và kịch câm, những bản nhạccó lời hay không lời, những tácphẩm điện ảnh trong đó có cáctác phẩm tương đương được thểhiện bằng một tiến trình tương tựquy trình điện ảnh, những tác phẩmđồ họa, hội họa, kiến trúc, điêukhắc, hoàn toàn có thể bảo lãnh 1 số ít tácphẩm là công văn của Nhà nướcvề hành pháp, tư pháp, khôngbảo hộ so với những tác phẩmmang đặc thù thời sự thuần túy, mang tính thông tin, báo chí truyền thông vàtheo Điều 9.2 của Hiệp địnhTrips, những ý tưởng sáng tạo, thủ tục vàphương thức quản lý hoặckhái niệm toán học khôngđượcbảo hộ quyền tác giả. Ngoài ra, Hiệp định TRIPS đã cóLuật SHTT Nước Ta lạiquy định “ đóng ” đối vớinhững tác phẩm được nhànước trải qua việc liệt kêcứng nhắc những thể loại tácphẩm. Đối tượng được bảo hộđược pháp luật, liệt kêchính thức tại một văn bảnlà luật SHTT 2009. Khoản 1 điều 22 Luật Sởhữu trí tuệ ( SHTT ) quyđịnh : “ Chương trình máytính ( CTMT ) là tập hợpcác hướng dẫn được thể hiệndưới dạng những lệnh, cácmã, lược đồ hoặc bất kỳdạng nào khác, khi gắnvào một phương tiện đi lại màmáy tính đọc được, có khảnăng làm cho máy tínhthực hiện được một côngviệc hoặc đạt được một kếtquả đơn cử. CTMT đượcbảo hộ như tác phẩm vănhọc, dù được biểu lộ dướidạng mã nguồn hay mãmáy ”, đồng thời khoản 2 điều 59 Luật SHTT quyđịnh loại trừ cấp bằng độcquyền sáng tạo ( patent ) sự bổ trợ tác phẩm được bảohộ cho Công Ước Berne đối vớiphần mềm máy tính dù dướidạng mã nguồn hay mã máy đềuphải được bảo lãnh theo như tácphẩm văn học theo Công ướcBerne ( Điều 10 ). cho CTMT, như vậy phápluật Nước Ta pháp luật chỉbảo hộ quyền tác giả đốivới CTMT.Quyềncủa tácgiảTrong Công ước Berne những quyềntác giả được lao lý thành cácquyền niềm tin và quyền kinh tếđộc lập với nhau. Đồng thời khôngcó pháp luật nào là quyền tinhthần, quyền nào là quyền kinh tế tài chính. Điều 6 bis vá Điều 14 ter quy địnhvề quyền niềm tin, những quyền cònlại được hiểu là quyền kinh tế tài chính. Công ước Berne pháp luật vềquyền tiếp theo so với tác phẩmmỹ thuật và bản thảo viếttay ( Điều 14 ter ). Về những quyền được bảo lãnh, Hiệpđịnh bảo lãnh tổng thể những quyền củatác giả trừ những quyền được cấptheo hoặc phát sinh trên cơ sởquy định tại Điều 6 bis của Côngước Berne. Theo Điều 6 bis, đó làcác quyền ý thức phát sinhtrên cơ sở quyền thay mặt đứng tên tác giảđộc lập với quyền kinh tế tài chính của tácgiả như : quyền phản đối bất kìsự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổihoặc nhưng vi phạm khác đốivới tác phẩm hoàn toàn có thể làm phươnghại đến danh dự, tiếng tăm củatác giả sau khi quyền này đượcchuyển nhượng. Ngoài ra còn cócác quyền phát sinh sau khi tácgiả chết theo lao lý tại khoản2 Điều 6 bis. Pháp luật Nước Ta lạiphân chia quyền tác giả baogồm quyền nhân thân vàquyền gia tài. Đồng thờitrong cả luật sân sự 2005 và luật SHTT việt nam đều quyđịnh đơn cử về quyền nhânthân và quyền tác giả gồmnhững quyền gì. Pháp luật dân sự Việt Namkhông lao lý về quyềntiếp theo. Điềukiệnbảo hộĐiều 3 CƯ Berne : Tác phẩm củacác tác giả là công dân của mộttrong những nước là thành viêncủa Liên hiệp hoặc cư trú ở cácquốc gia thành viên mặc dầu nhữngcác tác phẩm của họ đã công bốhay chưa ; Tác phẩm của những tácgiả không phải là công dân củamột trong những nước là thànhviên của Liên hiệp mà công bố lầnđầu tiên ở một trong những nướcthành viên của Liên hiệp, hay đồngThừa nhận tuân thủ những điều kiệnnày theo Công ước Berne vềđiều kiện bảo lãnh cho tác phẩmcủa những tác giả. Pháp luật Nước Ta cũngquy định việc bảo lãnh quyềntác giả không cần thiêt phảithực hiện bất kỳ thủ tụchành chính nào. Tuy nhiêntại khoản 1 Điều 8 LuậtSHTT 2009 quy địnhkhông bảo lãnh những đốitượng sở hữu trí tuệ trái vớiđạo đức xã hội, trật tự côngcộng có hại cho quốcphòng bảo mật an ninh. Như vậykhác với những quy địnhthời công bố ở một nước trong vàmột quốc tế Liên hiệp. Các tác phẩm được bảo lãnh trongTư pháp Nước Ta khi được ấnđịnh trên một hình thái vật chấtnhất định mà không cần trải quabất kỳ sự kiểm tra hay cho phépnào về mặt nội dung và hình thức. Việc bảo lãnh là độc lập so với chấtlượng hoặc giá trị kèm theo tácphẩm. Nói một cách khác việc bảohộ quyền tác giả so với một tácphẩm không phụ thuộc vào vào nộidung tác phẩm đó. trong tư pháp quốc tế ViệtNan, một tác phẩm có đượcbảo hộ hay không còn phụthuộc vào nội dung tácphẩm có trái với đạo đứcxã hội, trật tự công cộnghay không. Thựcthiquyềntác giảTrong Tư pháp quốc tế Nước Ta, những tác giả hoặc chủ sở hữu của tácphẩm hoàn toàn có thể triển khai quyền củamình tại nhiều vương quốc thành viêncủa điều ước. Đồng thời cùng vớiviệc ĐK quyền tác giả, việcyêu cầu giải quyết và xử lý hành vi xâm phạmquyền lợi của tác giả hoàn toàn có thể đượctiến hành ở những cơ quan nhà nướccủa nhiều vương quốc thành viên củaĐiều ước. Về những quyền của tác giả đối vớitác phẩm. Theo lao lý củaCông ước tác giả được bảo lãnh sẽcó quyền so với việc dịch, saochép tác phẩm trừ một số ít trườnghợp ngoại lệ đặc biệt quan trọng những tácphẩm hoàn toàn có thể được phép sao chép, miễn sao không làm phương hạiđến những quyền hạn hợp phápcủa tác giả. Tác phẩm cũng cóthể được sử dụng tự do có mụcđích một cách hợp pháp và phùhợp với thông lệ đúng đắn nhưviệc sử dụng tác phẩm để tríchdẫn, minh họa ship hàng cho việcgiảng dạy. Các pháp luật nàyđược ghi nhận đơn cử từ Điều 9 đến Điều 14 công ước Berne, tạiĐiều 14 của hiệp định Trips cócụ thể so với việc bảo lãnh nhữngngừơi trình diễn, người sản xuấtbản ghi âm và những tổ chức triển khai pháthành truyền hình với những bài biểudiễn, bản ghi âm và chương trìnhphát sóng. Hiệp định TRIPS quyTác giả, chủ sở hữu của tácphẩm thực thi quyền tác giảcủa mình trải qua cơquan có thẩm quyền ở ViệtNam. định người màn biểu diễn có quyềnngăn cản việc thu, tái bản, pháttrên phương tiện đi lại vô tuyếnchương trình trình diễn của mìnhmà không xin phép. Người sảnxuất chương trình thu thanh cóquyền được cho phép hoặc cấm tái bảntrực tiếp hoặc gián tiếp chươngtrình thu thanh của mình. Các tổchức phát thanh truyền hình cóquyền cấm thu, tái bản và phátlại trên phương tiện đi lại vô tuyếnchương trình truyền hình củamình mà không xin phép. Thờihạnbảo hộĐiều 7 CƯ Berne Tuân thủ những lao lý của Côngước Berne. Điều 12 Hiệp địnhTRIPS pháp luật : Bảo hộ suốtđời và 50 năm sau khi tác giảqua đời trừ so với tác phẩmnhiếp ảnh và những tác phẩm mỹthuật ứng dụng thời hạn bảo lãnh ítnhất là 25 năm kể từ ngày tácphẩm được triển khai, còn lại cáctác phẩm khác không được tínhthời hạn bảo lãnh thì sẽ được bảohộ tối thiểu 50 năm kể từ ngày phổcập tác phẩm đến công chúnghoặc tính từ ngày tác phẩm đượcthực hiện. Thời hạn bảo lãnh so với ngườibiểu diễn và người sản xuấtchương trình thu thanh là ít nhất50 năm, so với những tổ chức triển khai phátthanh truyền hình là 20 năm tínhtừ ngày cuối của năm diễn rachương trình trình diễn hoặcchương trình được thu thanh, truyền hình. Điều 27 Luật SHTTViệt Nam3. Kết luận : ( kiểu như Tóm lại á ) Công ước Berne đã tạo ra một khung pháp lý, tạo cơ sở cho Nước Ta hoàn thành xong hệ thốngluật về bảo lãnh quyền tác giả ( Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật dân sự ) tương thích với những điều ước quốctế, tạo ra thiên nhiên và môi trường pháp lý cho quy trình hội nhập quốc tế một cách tổng lực. Việc gia nhậpCông ước Berne mở ra cho những tác giả, chủ sở hữu những tác phẩm, những nhà đầu tư kinh tế tài chính và dịchvụ trong nghành này của Nước Ta hoàn toàn có thể thuận tiện trong việc chuyển giao quyền tác giả củacác những mô hình tác phẩm văn học, nghệ thuật và thẩm mỹ và khoa học có lợi thế. Hiệp định về những góc nhìn tương quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ TRIPS cónhững pháp luật tương quan đến khoanh vùng phạm vi những loại quyền SHTT rộng hơn, bao quát hơn. TRIPS đặtra những nhu yếu bảo lãnh ở mức tối thiểu. Tuy nhiên, so với một số ít vương quốc đang tăng trưởng haykém tăng trưởng thì những nhu yếu bảo lãnh SHTT này vẫn còn cao, Nước Ta cũng không là ngoạilệ. Ngoài ra, những nước Thành viên trọn vẹn có quyền thiết lập những lao lý ở mức cao hơnmiễn không trái với lao lý của TRIPS. Đây cũng chính là điểm mà những nước tăng trưởng đã lợidụng để dùng sức ép so với những nước đang tăng trưởng để ký những Hiệp định song phương theođó việc bảo lãnh giành cho nhau luôn ở mức cao hơn pháp luật tối thiểu của TRIPS.Pháp luật Nước Ta mà đơn cử là Luật SHTT có nhiều pháp luật cụ thể hơn so với những điềuước quốc tế về bảo lãnh quyền tác giả mà tất cả chúng ta tham gia. Tuy nhiên, do tất cả chúng ta là một quốcgia tăng trưởng nên vẫn có những pháp luật chưa tương thích với pháp luật trong cá điều ước quốc tế, cũng như còn nhiều thiếu sót. Thêm vào là ý thức dân cư Nước Ta trong việc tôn trọngquyền tác giả còn rất kém. Do đó bên cạnh việc triển khai sửa đổi bổ trợ những pháp luật củapháp luật cho tương thích với điều ước quốc tế, tất cả chúng ta cần phải có chiến dịch tuyên truyền thayđổi nhận thức của người dân nhằm mục đích bảo vệ thực thi những điều ước quốc tế trên thực tiễn .

Source: https://vvc.vn
Category : Pháp luật

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay