Nguyễn Thiện Thuật (1844-1926), tên tự là Mạnh Hiếu, còn gọi là Tán Thuật (do từng giữ chức Tán tương), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19.
Nguyễn Thiện Thuật sinh ngày 23 tháng 3 năm 1844, quê làng Xuân Dục huyện Đường Hào (nay là làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên), là con cả của một gia đình nhà nho nghèo, thuộc dòng họ hậu duệ của Nguyễn Trãi.[1] Cha ông là tú tài Nguyễn Tuy làm nghề dạy học, các em trai ông là Nguyễn Thiện Dương và Nguyễn Thiện Kế sau này cũng đều tham gia khởi nghĩa Bãi Sậy.
Năm 1874, khi đã đỗ Tú tài, ông được cử làm Bang biện do có công đánh giặc ở Kinh Môn tỉnh Thành Phố Hải Dương. Năm ( Bính Tý ) 1876 ông liên tục dự kỳ thi Nho học nhưng chỉ đậu cử nhân, cùng khoa thi này Phan Đình Phùng vào năm sau đỗ Đình nguyên Tiến sĩ. Sau đó Nguyễn Thiện Thuật được thăng chức Tri phủ ở Từ Sơn tỉnh TP Bắc Ninh. Rồi ông được chỉ định giữ chức Tán tương quân vụ tỉnh Thành Phố Hải Dương. Năm 1881 ông giữ chức Chánh sứ sơn phòng tỉnh Hưng Hóa kiêm chức Tán tương quân vụ tỉnh Sơn Tây. Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai năm 1882 – 1883, Nguyễn Thiện Thuật đã kháng lệnh triều đình nhà Nguyễn, quyết tâm đánh Pháp .
Vào khoảng đầu năm 1883 ông sang Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay, chiêu mộ nghĩa quân và liên kết với Đinh Gia Quế, người huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên, lập căn cứ ở Bãi Sậy (quê Đinh Gia Quế) để chống Pháp. Cuối năm 1883, sau khi ký hiệp ước Harmand, vua Tự Đức ra lệnh bãi binh ở Bắc Kỳ, nhưng Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ và lên Hưng Hóa, Tuyên Quang cùng với Nguyễn Quang Bích tiếp tục kháng chiến.
Năm 1884 thành Hưng Hóa thất thủ, ông liên tục rút lên thành Lạng Sơn phối hợp với Lã Xuân Oai, Tuần phủ Lạng Bình ( TP Lạng Sơn, Cao Bằng ) kháng Pháp, cho tới khi thành này thất thủ năm 1885 thì trốn sang Long Châu Trung Quốc .Tháng 7 năm 1885 vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương, Nguyễn Thiện Thuật trở lại Bãi Sậy, thay Đinh Gia Quế đã mất, chỉ huy khởi nghĩa Cần Vương kháng Pháp. Do ông là viên quan tích cực hưởng ứng trào lưu Cần Vương nhất ở Bắc kỳ, nên vua Hàm Nghi phong cho ông chức Bắc kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, nhằm mục đích làm hạt nhân tập hợp quan lại tân tiến và dân chúng ở Bắc kỳ để kháng Pháp. Nghĩa quân Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật đã vận dụng giải pháp du kích, dựa vào sự ủng hộ của dân chúng, lúc ẩn lúc hiện, đánh úp đồn trại Pháp trên đường TP. Hà Nội – Hưng Yên – Thành Phố Hải Dương, hay dựa vào vị trí sình lầy, lau sậy rậm rạp dễ tiến thoái của địa thế căn cứ, để chống Pháp càn quét vào Bãi Sậy .
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lan rộng ra khắp tỉnh Hưng Yên và các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, liên kết được với một số lãnh tụ Cần Vương khác như Tạ Hiện[2] ở Thái Bình, Nam Định,… tạo thành cả một phong trào sâu rộng ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, suốt những năm (1885-1889).
Năm 1888 Pháp cho Hoàng Cao Khải đem quân đàn áp. Tán Thuật trao quyền chỉ huy cho em trai là Nguyễn Thiện Kế và tùy tướng là Đốc Tít ( Nguyễn Đức Mậu ), rồi sang Trung Quốc tìm gặp Tôn Thất Thuyết bàn cách tăng viện, nhưng việc không thành. Ông mất vì bệnh ngày 25 tháng 5 năm 1926 và được an táng tại trên quả đồi thuộc hương Quan Kiều, ngoại vi thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây ( Trung Quốc ). Bia mộ khắc dòng chữ ” Nước Ta cách mạng. Cố tướng quân Nguyễn Công Thiện Thuật – chi mộ “. Vào năm 1990, Việt kiều ở Trung Quốc đã chuyển dời phần mộ Nguyễn Thiện Thuật từ đồi hương Quan Kiều về đồi hương Đại Lĩnh, phía nam thành phố Nam Ninh .
Năm 2005 mộ của ông được di dời về Việt Nam, cải táng tại quê hương Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, được công nhận di tích. Ngày nay, tại Việt Nam đang có những con đường, phố và ngôi trường mang tên ông.[3]
Nguyễn Thiện Thuật là thông gia với Phó bảng Vũ Chu ( cháu nội của Vũ Miên ), người giúp sức cho cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy .
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Khởi nghĩa Bãi Sậy Lưu trữ 2009 – 02-16 tại Wayback Machine