Về người cùng tên xin xem thêm bài Hữu Thọ
Nguyễn Hữu Thọ (10 tháng 7 năm 1910 – 24 tháng 12 năm 1996) là một luật sư, chính khách Việt Nam. Ông là Phó Chủ tịch nước Việt Nam (1976-1980), Quyền Chủ tịch nước Việt Nam (từ ngày 30 tháng 3 năm 1980 đến ngày 4 tháng 7 năm 1981), Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Việt Nam (1980–1992), Chủ tịch Quốc hội thứ 2 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981-1987) và Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1988–1994). Trong Chiến tranh Việt Nam, ông là Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chủ tịch Hội đồng cố vấn (Quốc hội) của nước Cộng hoà Miền Nam Việt Nam.
Ông sinh ra ở làng Long Phú, tổng Long Hưng Hạ, quận Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn (nay là thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An)[1]. Năm 1930, ông học luật ở Pháp và trở về nước năm 1933. Hành nghề luật sư khắp các tỉnh miền Tây Nam Bộ, ông luôn bảo vệ công lý, bênh vực người dân vô tội trước tòa án thực dân. Năm 1947, ông vận động hàng trăm luật sư, kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ, nhà giáo, nhà báo,… ký tên vào bản Tuyên ngôn của trí thức Sài Gòn – Chợ Lớn đòi Chính phủ Pháp đàm phán với Chính phủ Việt Nam do Việt Minh lãnh đạo. Năm 1948, ông tham gia Hội Liên Việt và ngày 16 tháng 10 năm 1949 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương[2].
Sự nghiệp chính trị[sửa|sửa mã nguồn]
Hoạt động Cách mạng[sửa|sửa mã nguồn]
Ông hoạt động trong phong trào trí thức và bị Pháp bắt tháng 6 năm 1950, bị giam ở Lai Châu rồi Sơn Tây cho đến tháng 11 năm 1952. Sau đó ông lại tham gia phong trào đấu tranh hợp pháp, đòi hòa bình ở Sài Gòn – Chợ Lớn, là Phó chủ tịch Phong trào hòa bình Sài Gòn-Chợ Lớn. Năm 1954, ông bị chính quyền Quốc gia Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm bắt giam ở Phú Yên.
nhà nước Cách mạng lâm thời[sửa|sửa mã nguồn]
Cuối tháng 11 năm 1961 ông Thọ về đến bắc Tây Ninh, tháng 2 năm 1962 Đại hội lần thứ I Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Nước Ta tổ chức triển khai và ông được bầu làm quản trị. [ 3 ]Khi nhà nước Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Nước Ta xây dựng vào tháng 6 năm 1969, ông giữ chức quản trị Hội đồng cố vấn. [ 4 ]
Sự nghiệp chính trị sau năm 1975[sửa|sửa mã nguồn]
Năm 1976 ông được bầu làm Phó quản trị nước Nước Ta thống nhất. [ 3 ]Tháng 4 năm 1980 ông làm Quyền quản trị nước đến tháng 7 năm 1981 sau khi quản trị nước Nước Ta Tôn Đức Thắng qua đời. [ 3 ]
Năm 1981 ông là Chủ tịch Quốc hội Việt Nam đến năm 1987, rồi là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tại đại hội năm 1988. Ông giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng nhà nước khóa VII, VIII.[5]
Ông được thưởng Huân chương Sao vàng năm 1993. [ 5 ]
Qua đời và vinh danh[sửa|sửa mã nguồn]
Mộ của ông Nguyễn Hữu Thọ và vợ của ông
Ông qua đời lúc 20 h40 tối ngày 24 tháng 12 năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh [ 3 ], và được an táng ở Nghĩa trang TP.HCM. Đây là ngày ông qua đời cũng quyết định hành động hủy tiệc mừng năm mới 1997 và chuyển sang thời gian khác trong dịp Tết Nguyên Đán 1997 .
Đường Nguyễn Hữu Thọ tại Sài Gòn
Tên của ông được đặt cho những đường phố ở Nước Ta, gồm có : Thành Phố Hà Nội ( nối Giải Phóng với đường Linh Đường ), Thành phố Hồ Chí Minh ( nối Khánh Hội – cầu Bà Chiêm ), TP. Đà Nẵng ( nối Nguyễn Tri Phương đến Võ Chí Công ), Điện Biên Phủ ( quốc lộ 12 đến điểm cắt Bế Văn Đàn ), …Tên của ông được đặt cho ngôi trường lớn ở quê nhà ông ( Bến Lức ) trung học phổ thông Nguyễn Hữu Thọ gần nhà văn hóa Bến Lức, ở Q. 7 trường trung học cơ sở Nguyễn Hữu Thọ trên đường Lâm Văn Bền và ở Q. 4 ngày 12/03/2010 tên ông được đặt cho trường trung học phổ thông Nguyễn Hữu Thọ, gần Bến Nhà Rồng tọa lạc địa chỉ số 02 Bến Vân Đồn phường 12 Q. 4. Ngoài ra, Đền thờ Nguyễn Hữu Thọ đã được kiến thiết xây dựng ở quê nhà ông nằm giữa nhà văn hóa huyện và ngôi trường mang tên ông .
- “Gắn bó với dân tộc, với nhân dân, với cách mạng”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]