Phân tích thân phận và con đường đến với hạnh phúc của cô gái mồ côi trong truyện Tấm Cám.>

Lựa chọn câu để xem giải thuật nhanh hơn- Sau bao đau khổ, chết đi sống lại nhiều lần, ở đầu cuối Tấm đã quay trở lại với cuộc sống, hương niềm hạnh phúc có thực và vĩnh viễn trên trần gian. Kết thúc đó cho thấy ý niệm về niềm hạnh phúc của nhân dân xưa. Điều này bộc lộ lòng yêu đời và gắn bó với đời sống của nhân dân lao động xưa .=> Mấy lần hóa thân của Tấm trong chặng đời này cũng có sự trợ giúp của yếu tố kì ảo. Nếu ở phần một của truyện, Bụt hiện lên ban tặng vật thần kì mỗi lần Tấm khóc, thì ở phần hai, cuộc đấu tranh kinh khủng hơn nhưng ta không còn thấy Tấm khóc, cũng trọn vẹn không thấy sự Open của Bụt. Nhân dân gợi vào nhân vật Tấm ý thức phải tự mình giành và giữ niềm hạnh phúc. Khác với phần một, yếu tố kì ảo ( chim vàng anh, xoan đào, quả thị ) không thay Tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi Tấm hóa thân để lại đấu tranh với cái ác kinh khủng hơn .

– Sau bao lần hóa thân chiến đấu chống kẻ thù. Tấm trở lại với cuộc đời. Dường như Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn nếu cái ác còn tồn tại. Cô lừa Cám để tự nó sai người đào hố, dội nước sôi, tự kết thúc đời mình. Cuối cùng Tấm đã giành lại và hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Kết thúc đó nêu triết lí dân gian, “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo” phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt kẻ thù.

– Tấm hóa vàng anh, báo hiệu sự xuất hiện của mình thì bị giết chết. Tấm hóa cây xoan đào ( khung cửi ), tuyên chiến với quân địch thì bị đốt cháy. Tấm hóa cây thị ( quả thị ) quay trở lại với đời … Cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong yên lặng đã vùng dậy, còn cái ác cũng tìm mọi cách tàn phá cái thiện. Những lần chết đi sống lại của Tấm phản ánh đặc thù nóng bức, kinh khủng của cuộc chiến đấu giữa cái thiện với cái ác, đồng thời bộc lộ sức sống mãnh liệt, không thế bị hủy hoại của cái thiện .

Bài mẫu

Đã là người Nước Ta, trong thời thơ ấu của mình có mấy ai không từng được nghe kể chuyện Tấm Cám và hình ảnh cô Tấm mồ côi ao ước chiếc yếm đào, ngồi khóc bên giếng vì mất bống, bị hắt hủi tội nghiệp đã làm lay động bao trái tim nhân hậu. Kiểu truyện ” Người mồ côi ” rất quen thuộc trong truyện cổ tích Nước Ta và quốc tế, trong đó Tấm Cám là kiểu truyện thông dụng. Ở Pháp có truyện Lọ Lem, Đức có Cò Tro Bếp, Trung Quốc có Nàng Diệp Hạn, Đất nước xinh đẹp Thái Lan có Con cá vàng, Mianma có Truyện con rùa, Cam-pu-chia có Nẽang-Cantóc … Nhiều dân tộc thiểu số ở Nước Ta cũng có những truyện tương tự như Tấm Cám : Tua Gia Tua Nhi ( Tày ), Ý Ưởi Ý Noọng ( Thái ), Gầu Nà – Gầu Rềnh ( Mông ), Đôi giày vàng ( Chăm ), Ứ và Cao ( Hơ-rê ), Gơ liu – Gơ lát ( Xơ-rê ) … Khác với những truyện tựa như Tấm Cám ở phương Tây, thường kể về cô gái mồ côi xấu số, chịu khó hiền lành được vào hoàng cung, lấy chồng hoàng tử và kết thúc ở đó. Truyện Tấm Cám còn có phần thứ hai, phản ánh cuộc đấu tranh gian truân và kinh khủng đế giành và giữ niềm hạnh phúc của Tấm. Cả hai phần của truyện đều bộc lộ mơ ước thiện thắng ác và mơ ước về niềm hạnh phúc của nhân dân lao động Nước Ta xưa. Thân phận và con đường đến với niềm hạnh phúc của cô gái mồ côi .
Truyện kể mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi, lời kể đã xác lập thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn của một đứa trẻ, có lẽ rằng đau khổ thiệt thòi nhất là thiếu mẹ. Tục ngữ có câu “ Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chạ ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ còn thiệt thòi, đau khổ hơn nhiều. Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ quan hệ với mẹ con người dì ghẻ. Tấm đơn độc chỉ biết khóc mỗi khi bị hành hạ. bị Cám lừa trút mất giỏ tép, mất hy vọng có cái yếm đào, Tấm khóc. Cái yếm đào chỉ là một món quà nhỏ bé, nhưng với cô Tấm nghèo khó, mồ côi, đang ở tuổi trăng tròn, lại chẳng khi nào được nhận một món quà nào thì nó thật đáng quý. Vì vậy, có vẻ như Tấm không chỉ khóc vì bị mất yếm đào mà còn vì chút hy vọng được nhận yêu thương cũng tan biến mất. Bị lừa đi chăn trâu đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống nhỏ bé bầu bạn với Tấm, Tấm lại khóc. Chú bống nhỏ bé, được cô nhường nhịn, chăm chút yêu thương trong bát cơm hẩm san sẻ cho bống và câu gọi thiết tha “ ‘ Bổng bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người ”. Với cô gái mồ côi không được nhận sự chăm nom nào như Tấm thì chăm chút cho bống là một nhu yếu tình cảm, nhu yếu được chăm chút và sẻ chia. Vì vậy, việc giết bống đâu phải để thỏa mãn nhu cầu sự tham ăn của mẹ con Cám mà là để hành hạ Tấm, phá đi chỗ dựa tình cảm của cô gái đơn côi. Cục máu bầm nổi trên mặt giếng như dẫn chứng không lời về sự tàn khốc, gian ác của hành vi giết bống. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Dì ghẻ trộn thóc với gạo bắt Tấm nhặt. Đến đây, sự hành hạ chẳng cần phải che đậy như những lần trước. Hội làng là ngày vui nhất trong năm. Mọi người từ già đến trẻ, từ giàu đến nghèo đều được đi hội và san sẻ niềm vui chung, thế mà riêng Tấm bị bắt ở nhà, cô càng một mình hơn. Tấm lại khóc và có vẻ như tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau khổ của cô lên cao hơn .

       Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội xưa. Mâu thuẫn giữa Tấm với mẹ con dì ghẻ không chỉ là mâu thuẫn dì ghẻ – con chồng mà còn là biểu hiện cụ thể của xung đột thiện – ác trong cuộc đời. Tấm đại diện cho nhân vật thiện chăm chỉ, lương thiện, đôn hậu (bắt được đầy giỏ tép, đi chăn trâu đồng xa, nhịn cơm dành nuôi bông…). Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ bé nhỏ của Tấm là cái yếm đào, lén lút giết chết con bống là giết chết người bạn bé nhỏ của Tấm, trắng trợn trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm với đời của cô, … Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gợi dậy niềm cảm thông, chia sẻ của mọi người.

Cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành, tác oai tác quái thì mâu thuẫn thiện – ác biểu lộ càng thâm thúy, không hề dung hòa, tạo nên không khí stress buộc phải đổi khác .
Truyện cổ tích thần kì thường xử lý xích míc ấy theo hướng : dù lâu hay mau, dù nguy hiểm khó khăn vất vả đến thế nào, tuy nhiên thiện nhất định sẽ thắng ác và người lương thiện nhất định sẽ được nhận niềm hạnh phúc. Con đường đến với niềm hạnh phúc của nhân vật thiện chính là khuynh hướng xử lý xích míc rất đặc trưng của cổ tích. Để xử lý xích míc đó, truyện cổ tích thường sử dụng yếu tố kì ảo .
Truyện Tấm Cám, xử lý mối xung đột thiện – ác cũng theo hướng thiện thắng ác và nhờ sự giúp sức của nhân vật Bụt. Bụt thường Open đúng lúc mỗi khi Tấm khóc, an ủi, nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn vất vả hay đau khổ. Tấm mất yếm đào – Bụt cho cá bống. Tấm mất bống – Bụt cho hy vọng đổi đời. Tấm không được đi hội – Bụt cho chim sẻ đến giúp Tấm, đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và đạt đến đỉnh điểm niềm hạnh phúc. Bụt ( tên gọi dân gian của Phật ) vốn là nhân vật của Phật giáo, đã được dân gian hóa, trở thành ông lão hiền lành, tốt bụng, nhiều thế lực, Open đúng lúc để nâng đỡ mơ ước, chữa lại số phận hẩm hiu cho người nghèo. Cùng với Bụt, con gà biết cảm thông với Tâm, chim sẻ biết giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, cũng là yếu tố kì ảo, trợ giúp Tâm trên đường tới niềm hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về niềm hạnh phúc mà nhân dân hoàn toàn có thể mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, đơn độc trong xã hội xưa .
Những đau khổ của người mồ côi là có thực và phổ cập, còn khô cứng phúc mà họ được hưởng thường rất khan hiếm, phần nhiều chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về niềm hạnh phúc qua nhân vật mồ côi, truyện cổ tích đã “ chữa lại ” số phận không như mong muốn cho họ. Điều đó bộc lộ niềm tin sáng sủa, yêu đời, hy vọng ở tương lai công minh, dân chủ của nhân dân lao động .

      Trong truyện Tấm Cám Việt Nam và những truyện tương tự của nước ngoài, các cô gái mồ côi đến với hạnh phúc nhờ đôi giày, vật báu trực tiếp đem lại may mắn. Nhờ chiếc giày cô gái đánh rơi mà nhà vua hay hoàng tử nhận ra người đẹp và kết hôn với cô. Hình ảnh đôi giày trong văn hóa một số nước có ý nghĩa giao duyên, là vật làm tin các chàng trai cô gái thường trao cho nhau trước hôn lễ. Các chú rể người Đức thường tặng cho vị hôn thê của minh một đôi giày trong lễ đính hôn. Khi cô gái ướm chân vào giày, chàng trai phải tự tay mình đóng nốt những chiếc đinh cuối cùng với hi vọng hôn nhân của họ sẽ bền chặt, ơ Trung Quốc, các cô gái dù chưa biết mặt người chồng tương lai của mình là ai vẫn cứ khâu một đôi giày vải hoặc tết một đôi giày rơm làm món quà tặng đầu tiên cho chồng, ở Việt Nam, đôi giày không có ý nghĩa giao duyên, nhưng khi những người phụ nữ bình dân nghe tin loa truyền, ai đi vừa giày sẽ được làm hoàng hậu thì “đàn bà con gái trong đám hội chen nhau đến ướm chân vào giày”. Ướm chân hay chính là được một lần thử vận may của mình! Có ai không mơ ước hạnh phúc và có ai lại bỏ qua cơ hội kiếm tìm hạnh phúc cho mình. Ướm giày, họ hi vọng một may mắn tình cờ nào đó sẽ dẫn mình đến tương lai tốt đẹp. Nhưng truyện cổ tích không bao giờ có ngẫu nhiên cho những người bất kì. Chỉ có người đáng hưởng hạnh phúc nhất mới là người ướm chân vừa giày và nhận món quà may mắn của số phận. Ta hiểu rằng, đằng sau lũy tre làng yên tĩnh luôn ấp ủ bao mơ ước lãng mạn và kì diệu của người nghèo, truyện cổ tích đã tạo hình cho những mơ ước đó và nuôi nó sống động trong những câu chuyện kể.

Tấm nhờ siêng năng, lương thiện mà được Bụt trợ giúp, từ cô gái mồ côi nghèo trở thành hoàng hậu. Đó là con đường đến với niềm hạnh phúc của những nhân vật thiện như Tấm trong truyện cổ tích châu Âu và quốc tế. Điều đó một mặt phản ánh ước mơ thiện thắng ác, mặt khác còn nêu triết lí “ ở hiền gặp lành ”, một triết lí thông dụng trong truyện cổ tích .

Loigiaihay.com

Source: https://vvc.vn
Category : Từ Thiện

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay