Ngày đăng: 31/05/2016, 15:41
NHÓM 1: Đồng Thị Huyền Trân Lê Thị Ngọc Trân Trương Mỷ Huyền Thái Kim Ngân Dương Ngọc Đại CÁO TẬT THỊ CHÚNG (Mãn Giác Thiền Sư) – – Tác giả: Mãn Giác thiền sư tên thật Lí Trường, sinh năm 1052, năm 1096 Nổi tiếng học rộng biết nhiều, tinh thông Nho, Phật đạo Nhà sư vừa hâm mộ Phật giáo, tiếng Thiền học, có xu hướng xuất thế, lại vừa tích cực nhập thế, giúp nhà vua việc triều Rất triều đình vua Lí Nhân Tông coi trọng Sự nghiệp: nhà sư để lại thơ Cáo tật thị chúng tiếng Sách Thiền uyển tập anh ghi lại đời Mãn Giác thiền sư với tài năng, đức độ ông sau: “Sư có tiếng người học rộng nhớ nhiều, thông Nho học Phật học, tiếng tuyển vào cung Mỗi làm việc công xong nhà, sư nghĩ đến học phép thiền định ( ) Sau tâm ấn thiền sư Quảng Trí, sư đeo bầu chống gậy vân du nơi để tìm bạn đạo Sư đến đâu có nhiều người theo học Sư nghiên cứu kinh Tam tạng trí tuệ vô thượng trở nên vị lãnh tụ pháp môn đời Khi vua Cảm Linh Nhân hoàng hậu lưu tâm thiền học, sai làm chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng mời sư đến để tiện hỏi han đạo.” Tác phẩm: Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác vào cuối 1096 thiền sư lâm bệnh, trăng trối với đệ tử kệ Bài kệ chiêm nghiệm sâu sắc Mãn Giác thiền sư, ông ngộ vào giây phút cuối đời nên vô thấm thía, có sức lay động Xuất xứ: từ sách Thiền uyển tập anh (Chọn lọc bậc anh tú vườn thiền) có vị trí quan trọng Một số không nhiều di sản văn học nước ta thời kì đầu lưu giữ lại Sách bao gồm nhiều tiểu truyện thiền sư khác Hình thức thể loại: CTTC thơ hình thức kệ (Lưu ý: kệ thể loại văn học, thơ.) Kệ thể văn Phật giáo, dùng để truyền bá giáo lý Phật pháp, viết văn vần Nhiều kệ có giá trị văn chương thơ Kệ tóm tắt giáo lí đạo Phật truyền đạt thể nghiệm tâm đắc nhà sư Chỉ kệ dùng hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa, có phẩm chất văn học gọi thơ kệ (Thể văn Phật giáo gồm thể loại con: Kệ (17 trang) Thiền sư Việt Nam (4 trang – sư đệ vấn đáp)) 2.1 Nguyên tác: 告疾示眾 春去百花落, 春到百花開。 事逐眼前過, 老從頭上來。 莫謂春殘花落盡, 庭前昨夜一枝梅。 (1096) 2.2 Phiên âm Hán – Việt: Cáo tật thị chúng Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc chi mai 2.3 Dịch nghĩa: Cáo bệnh bảo người Xuân qua, trăm hoa rụng, Xuân đến, trăm hoa nở Chuyện đời xô đuổi ruổi qua trước mắt, Tuổi già đến (với người) từ (mái tóc bạc) đầu Chớ nên nói xuân tàn hoa rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân có nhành mai (nở hoa) 2.4 Dịch thơ Ngô Tất Tố: Xuân ruổi trăm hoa rụng, Xuân tới, trăm hoa cười Trước mắt việc mãi, Trên đầu già đến Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua, sân trước nhành mai Chú thích từ: 告 cáo (bộ khẩu): bảo, nói cho biết 疾 tật (bộ nạch hay tật): bệnh, ốm 示 thị (bộ thị hay kỳ): bảo cho biết 眾 chúng (bộ mục): người 示眾 thị chúng: trình bày ý nghĩ, suy nghĩ cho người biết Cáo bệnh bảo người 春 xuân (bộ nhật): mùa xuân 去 khứ (bộ tư hay khư): 百 bách (bộ bạch): trăm 花 hoa (bộ thảo): hoa 落 lạc (bộ thảo): rụng, rơi xuống Xuân qua, trăm hoa rụng 到 đáo (bộ đao): đến 開 khai (bộ môn): nở ra, mở Xuân đến, trăm hoa nở 事 (bộ quyết): sự, việc đời, công việc 逐 trục (bộ xước): đuổi theo, nối tiếp trôi qua nhanh đuổi theo 眼 nhãn (bộ mục): mắt 前 tiền (bộ đao): trước 過 (bộ xước): qua, 眼前過 nhãn tiền quá: vượt qua, trôi qua, ruổi qua trước mắt Chuyện đời xô đuổi ruổi qua trước mắt 老 lão (bộ lão): người già, tuổi già 從 tòng (bộ xích): theo, nghe theo 頭 đầu (bộ hiệt): đầu, tóc 上 thượng (bộ nhất): 來 lai (bộ nhân): đến Tuổi già đến (với người) từ (mái tóc bạc) đầu 莫 mạc (bộ thảo): chớ, đừng (phó từ) 謂 vị (bộ ngôn): nói, bảo cho biết 殘 tàn (bộ đãi): tàn 盡 tận (bộ mãnh): hết, không Chớ nên nói xuân tàn hoa rụng hết 庭 đình (bộ nghiễm): sân 庭前 đình tiền: trước sân 昨 tạc (bộ nhật): hôm qua 夜 (bộ tịch): đêm, ban đêm 昨夜 tạc dạ: đêm qua 一 (bộ nhất): 枝 chi (bộ mộc): cành, nhánh 梅 mai (bộ mộc): mai 一枝梅 chi mai: nhành mai Đêm hôm qua, trước sân có nhành mai (nở hoa) Minh giải văn bản: Tựa đề: thơ vốn tựa đề, bốn chữ “ Cáo tật thị chúng ” Lê Quý Đôn đặt cho thơ Tựa đề “ Cáo tật thị chúng ” trình bày suy nghĩ, tâm tư thiền sư ông bệnh nặng cho người biết Đó suy nghĩ, trải nghiệm đời tinh thần lạc quan sống, triết lý Phật giáo sâu sắc mà ông muốn gửi gấm đến người 4.1 Nội dung: Bài thơ “ Cáo tật thị chúng ” nói lên quy luật sống thiên nhiên, biểu lộ tâm nhà sư trước quy luật sinh tử cõi nhân gian, tịch diệt vĩnh vũ trụ “ Cáo tật thị chúng ” chắn không nằm nội dung truyền giảng giáo lí đạo Phật mà tầng ý nghĩa triết lý sâu sắc đời mà thiền sư muốn gửi gấm Bài thơ chia thành hai phần: bốn câu đầu cảm nhận tượng, quy luật diễn tự nhiên xã hội, tạo vật kiếp người mà tác giả quan sát trải nghiệm; hai câu cuối triết lí Phật pháp quan niệm nhân sinh qua hình ảnh ẩn dụ, có tính chất khuyên răn Bốn câu thơ đầu man mác nỗi bâng khuâng Nỗi bâng khuâng xuất phát từ chiêm nghiệm thiền sư nhân Bốn câu thơ triển khai thành hai vế có quan hệ so sánh, so sánh thiên nhiên tạo vật đời người Thiền sư cảm nhận thiên nhiên: 春去百花落, 春到百花開。 (Xuân qua, trăm hoa rụng, Xuân đến, trăm hoa nở.) Xuân đến, trăm hoa nở tạo nên cảnh sắc rực rỡ, huy hoàng năm Rồi mùa xuân qua đi, cánh hoa lại rụng, để lại lòng người bao nỗi tiếc nuối Hai câu thơ mang màu sắc triết lí khái quát quy luật tồn thiên vận động thời gian mùa xuân sống thiên nhiên chuyển biến bất tận: “xuân qua” “xuân tới”, “hoa nở” “ hoa tàn” Mùa xuân vĩnh Cỏ trăm hoa vạn vật, người chịu chi phối theo quy luật khắc nghiệt tự nhiên Tác giả miêu tả theo trình tự đảo ngược: Xuân qua – xuân tới nhằm nhấn mạnh tuần hoàn, chu kì lặp lại tự nhiên Tạo vật đổi thay, vận động theo chu kì lặp lại, không ngừng nghỉ Như vậy, hai câu thơ đầu nói lên vòng tuần hoàn tự nhiên, vạn vật theo quy luật định sẵn thay đổi Cấu trúc đối xứng, nhịp thơ 2/3 đặn diễn tả xác vòng quay tự nhiên Thiền sư tiếp tục chiêm nghiệm đời, sự: 事逐眼前過, 老從頭上來。 (Chuyện đời xô đuổi ruổi qua trước mắt, Tuổi già đến (với người) từ (mái tóc bạc) đầu.) Những công việc bộn bề nối tiếp làm cho người quên thời gian chảy trôi nhanh Dòng chảy có lẽ không ngừng lại tín hiệu bất ngờ đến: màu tóc bạc Tóc bạc báo hiệu tuổi già Đến lúc này, người thảng nhận xuân không còn, đời người trôi nửa Ta thấy thiên nhiên kiếp người chảy trôi theo quy luật từ nảy sinh đến tàn lụi Nhờ phép đảo ngược hai câu đầu mà ta nhận thấy đời người không luân hồi tự nhiên, vạn vật Vòng quay thiên nhiên trở lại theo chu kì nó, đời người dường có chiều lụi tàn, phôi pha Sau già chết Mà nhìn thấy được, phía sau chết có hữu kiếp sống hay không Tác giả thể bâng khuâng có chút xót xa Bài kệ khép lại với hai câu tuyệt cú xưa truyền tụng vần thơ đẹp cổ thi Đó triết lí Phật pháp quan niệm nhân sinh: 莫謂春殘花落盡, 庭前昨夜一枝梅。 (Chớ nên nói xuân tàn hoa rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân có nhành mai (nở hoa).) Nhành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, cao lộng lẫy thiên nhiên người Thiền sư dùng hình ảnh nhành mai để thể triết lý Phật giáo Đó hình ảnh thể trường tồn, bất biến Phật giáo quan niệm người tu thành chân thân bất biến, trường tồn, trở nên vĩnh Cuộc đời có sinh, trưởng, lão, bệnh, tử nhà tu hành chân đắc đạo vượt qua khỏi quy luật sinh tử cành mai nở buổi xuân tàn Ông muốn thể triết lí nhân sinh: niềm lạc quan vào hồi sinh tươi trẻ đời, niềm tin trẻo sống cứng cỏi người thử thách Với ông thiên nhiên hữu sắc hữu hương, tràn đầy sức sống tươi mát trẻ trung, sống không ngừng vươn lên mạnh mẽ theo dòng chảy thời gian Bài kệ “ Cáo tật thị chúng ” thể cốt cách, quan niệm sống đẹp, trải nghiệm vị thiền sư đức trọng tài cao đời, triết lý nhân sinh cao đẹp tư tưởng Phật giáo hòa quyện với chất thơ giàu cảm xúc Nghệ thuật: Xuân khứ bách hoa lạc, B T T B T Xuân đáo bách hoa khai B T T B B Sự trục nhãn tiền quá, T T T B T Lão tòng đầu thượng lai T B B T B Mạc vị xuân tàn hoa T T B B B Đình tiền tạc B B T T T 4.2 lạc tận, T T chi mai B B Bài kệ viết theo thể thơ cổ phong (ngũ ngôn cổ thi) Luật trắc “khứ”, vần Vần: Gieo vần bằng: “khai” Gieo vần “ai” (khai – lai – mai) => vần cách Niêm: Câu niêm với “đáo” – “trục” Câu không niêm “khứ” (trắc) – “tòng” (bằng) khác Đối: Đối thanh: Câu đối với câu 4: “trục” (trắc) >< “tòng” (bằng) “tiền” (bằng) >< “thượng” (trắc) Câu đối với câu 6: “vị” (trắc) >< “tiền” (bằng) “tàn” (bằng) >< “dạ” (trắc) “lạc” (trắc) >< “chi” (bằng) Đối ý: Câu triển khai theo hướng tương phản, ý hai câu đối lập nhau, góp phần làm bật ý nghĩa câu thơ Ta thấy: “xuân khứ” (xuân đi) >< “xuân đáo” (xuân đến), “hoa lạc” (hoa rụng) >< “hoa khai” (hoa nở) cho thấy hai ý hoàn toàn đối lập thể vòng tuần hoàn thời gian thiên nhiên tạo hóa Câu triển khai theo hướng tương thành, ý hai câu bổ sung nâng đỡ cho góp phần làm bất hàm ý câu góp phần làm rõ thêm nghĩa thơ, công việc trôi qua tóc mái đầu bạc, báo hiệu tuổi già trôi chảy nhanh chóng thời gian vận động không ngừng Câu triển khai theo hướng tương phản, ý hai câu đối lập nhau, góp phần làm bật ý nghĩa câu thơ Ta thấy: “hoa lạc tận” (hoa rụng hết) >< “nhất chi mai” (một nhành mai nở hoa) cho thấy hai ý hoàn toàn đối lập thể triết lý nhân sinh tinh thần lạc quan đời tác giả Đối từ loại: Câu 2: Danh từ: “xuân” >< “xuân”, “hoa” >< “hoa” Động từ: “khứ” >< “đáo”, “lạc” >< “khai” Lượng từ: “bách” >< “bách” Câu 4: Danh từ: “lão” >< “sự”, “đầu” >< “nhãn” Động từ: “trục” >< “tòng”, “lai” >< “quá” Tính từ: “thượng” >< “tiền” Một số biện pháp nghệ thuật khác: Lập từ “xuân”, “bách”, “hoa” làm bật ý mà tác giả muốn thể vòng tuần hoàn thời gian thiên nhiên biến đổi không ngừng nghỉ Dùng từ, cụm từ đối “khứ” >< “đáo”, “khai” >< “lạc”, “hoa lạc tận” >< “nhất chi mai”,… nhấn mạnh ý mà tác giả muốn nói, tạo điểm nhấn Miêu tả theo trình tự đảo ngược: “xuân khứ” – “xuân đáo”, “hoa lạc” – “hoa khai” nhằm nhấn mạnh tuần hoàn, chu kì lặp lại tự nhiên (mang ý nghĩa niềm tin lạc quan) Câu sử dụng cấu trúc đối xứng, nhịp thơ 2/3 đặn diễn tả xác vòng quay tự nhiên Câu cặp câu thơ trì nhịp điệu đặn, cấu trúc đối xứng Đặc biệt đọc lên ta nhận thấy có điểm đáng lưu ý điệu: Câu 3: 4/5 chữ trắc, kết thúc trắc => xót xa Câu 4: 3/5 chữ bằng, kết thúc => ngậm ngùi Sử dụng hình ảnh “nhất chi mai”: Đó hình ảnh người tu hành đắc đạo Đảo ngữ: nhấn mạnh xuất hiện, diện bất ngờ, lặng lẽ, điềm nhiên, tự nhiên nhành mai => Đạo Phật huyền diệu Không có động từ, có cụm danh từ “nhất chi mai” => diện tất nhiên, tất yếu, tự nghìn năm => trường tồn Thể thơ chữ đến chữ: diễn tả thay đổi nhận thức, đánh dấu điểm ngoặt tư Thể thơ chữ đột ngột thay cho câu thơ chữ làm thơ giãn ra, thoáng nhận thức bình tĩnh, thở nhẹ nhõm, tràn hạnh phúc Tác giả trì đặn nhịp thơ câu câu để gợi đến tâm tự người So sánh dịch thơ Ngô Tất Tố với nguyên tác: Về hình thức: nguyên tác dịch thơ giống hình thức (số câu, số chữ) Về nội dung: Câu thứ nhất: nguyên tác “Xuân khứ bách hoa lạc” (xuân qua, trăm hoa rụng), dịch thơ dịch (Xuân ruổi trăm hoa rụng), từ “ruổi” chưa làm rõ nghĩa, mơ hồ so với nguyên tác “khứ” Câu thứ 2: nguyên tác “Xuân đáo bách hoa khai” (xuân đến, trăm hoa nở), dịch thơ dịch (Xuân tới, trăm hoa cười), từ “khai” (nở, mở) Ngô Tất Tố dịch thành “cười”, dịch khác nghĩa so với nguyên tác Câu thứ 3: nguyên tác “Sự trục nhãn tiền quá” (Chuyện đời xô đuổi ruổi qua trước mắt), dịch thơ (Trước mắt việc mãi), dịch chưa sát nghĩa chưa thể trôi chảy, tiếp diễn, phức tạp sống nguyên tác muốn thể Câu thứ 4: nguyên tác “Lão tòng đầu thượng lai” (Tuổi già đến (với người) từ (mái tóc bạc) đầu), dịch (Trên đầu già đến rồi) dịch tương đối sát nghĩa thể ý nguyên tác Câu thứ 5: nguyên tác “Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận” (Chớ nên nói xuân tàn hoa rụng hết), dịch thơ (Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết), dịch tương đối sát nghĩa thể ý nguyên tác Câu thứ 6: nguyên tác “Đình tiền tạc chi mai” (Đêm hôm qua, trước sân có nhành mai (nở hoa)), dịch thơ (Đêm qua, sân trước nhành mai), dịch thơ chưa thể nguyên tác mà tác giả muốn nói tới có phần chưa suông Liên hệ – mở rộng: Trong thơ ca, cảm xúc nói tới lần: có người ví thời gian bóng câu qua cửa sổ để hẫng hụt tháng ngày trôi nhanh Nguyễn Trãi sáng tạo hình ảnh độc chuyển tải cảm giác âu lo: Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm Những lệ xuân qua tuổi tác thêm Thời gian nỗi ám ảnh bám riết với thi nhân Đi xa tới thời đại, ta thấy xuất cảm giác tương tự Trong Vội vàng – Xuân Diệu: Nói làm chi xuân tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại Hình ảnh nhành mai: Người xưa xem hoa mai biểu tượng người quân tử Nguyễn Du nói “mai cốt cách” đề cao sang trọng, cao loài hoa Những cành mai khẳng khiu không dao động trước gió, hoa mỏng manh mà sáng bừng sắc vàng kiêu hãnh Lại loài hoa 10 nở trước loài hoa, phải chống chọi với rét mùa đông để trổ hoa, trở thành sứ giả báo tin xuân, cho nên, hoa mai người xưa coi trọng So sánh hình ảnh nhành mai tác giả sử dụng: So sánh 1: hai câu thơ Tảo mai nhà thơ Tề Kỉ đời Đường: “Tiền thôn thâm tuyết lí, Tạc chi khai” (Thôn trước tuyết âm u, Đêm qua nhành mai nở) CTTC ko dùng cụm chủ vị để kết thúc mà dùng cụm danh từ So sánh 2: hai câu thơ Mai hoa Uông Trung: “Cố viên hoa lạc tận Giang thượng chi khai” (Vườn xưa hoa rụng hết Trên sông nhành mai nở) Giống: đối lập “một nhành mai nở” cảnh “hoa rụng hết” Khác: Tác giả Uông Trung nhấn mạnh khác biệt thời tiết để thể nỗi nhớ quê da diết Ông quê miền Bắc lại làm quan Giang Tô Khi Giang Tô tàn xuân phía Bắc quê hương ông, mai bắt đầu nở báo tin xuân Dường ý nghĩa triết lí CTTC cao bậc So sánh 3: Thướng sơn (Lên núi) Hồ Chủ tịch viết năm 1942: “Cử đầu hồng nhật cận, Đối ngạn chi mai” (Ngẩng đầu mặt trời đỏ, Bên suối nhành mai) => Hình ảnh nhành mai đặt đối xứng với mặt trời đỏ cao xa, huy hoàng, ngạo nghễ => Toát lên vẻ cứng cỏi khác thường => Khí chất người quân tử => Phù hợp với tứ thơ đăng cao 11 […]… coi trọng So sánh hình ảnh nhành mai được các tác giả sử dụng: So sánh 1: hai câu thơ trong bài Tảo mai của nhà thơ Tề Kỉ đời Đường: “Tiền thôn thâm tuyết lí, Tạc dạ nhất chi khai” (Thôn trước trong tuyết âm u, Đêm qua một nhành mai nở) CTTC ko dùng cụm chủ vị để kết thúc mà dùng cụm danh từ So sánh 2: hai câu thơ trong bài Mai hoa của Uông Trung: “Cố viên hoa lạc tận Giang thượng nhất chi khai” (Vườn… lí của CTTC cao hơn một bậc So sánh 3: bài Thướng sơn (Lên núi) của Hồ Chủ tịch viết năm 1942: “Cử đầu hồng nhật cận, Đối ngạn nhất chi mai” (Ngẩng đầu mặt trời đỏ, Bên suối một nhành mai) => Hình ảnh nhành mai được đặt trong thế đối xứng với mặt trời đỏ cao xa, huy hoàng, ngạo nghễ => Toát lên vẻ cứng cỏi khác thường => Khí chất người quân tử => Phù hợp với tứ thơ đăng cao 11