Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.03 MB, 102 trang )

20

3. Những hệ sinh thái rừng tự nhiên chủ yếu ở Việt Nam

3.1. Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới

3.1.1. Phân bố
– Những hệ sinh thái rừng thuộc kiểu thảm thực vật này rất phong phú và đa dạng, phân bố ở các tỉnh: Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Lào Cai,
Ninh Bình Cúc Phương, Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Tây Nguyên v.v…
– Phân bố theo độ cao so với mực nước biển: Ở miền Bắc: dưới 700 m
Ở miền Nam: dưới 1.000 m
3.1.2. Điều kiện sinh thái
– Khí hậu: Nhiệt độ khơng khí trung bình hàng năm từ 20 – 25
o
C, nhiệt độ không khí trung bình tháng lạnh nhất từ 15 – 20
o
C. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 mm – 2.500 mm, nhiều vùng có lượng mưa
rất cao từ 3.000 mm – 4.000 mm Chỉ số khô hạn chung: 3 – 0 – 0 Hàng năm khơng có tháng hạn, tháng kiệt, chỉ có 3
tháng khơ. Độ ẩm khơng khí tương đối trung bình trên 85 Lượng bốc hơi thường thấp.
– Đất: Đá mẹ: đá nai gneiss, phiến thạch mica micaschiste, phiến sa thạch gres schisteux
, vi hoa cương microgranit, lưu vân rioolit, hoa cương granit, huyền vũ bazan v.v…
Đất địa đới của vành đai nhiệt đới ẩm vùng thấp Đất đỏ vàng Feralit hoàn toàn thành thục, sâu, dày, khơng có tầng đá ong.
Đất đỏ hung terra rossa nhiệt đới phong hố trên đá vơi và trên đất bồi tụ trong thung lũng dưới chân các núi đá vôi. Theo Friedland, đây là loại đất đen macgalit.
3.1.3. Cấu trúc rừng
a Cấu trúc tầng thứ Những hệ sinh thái rừng thuộc kiểu thảm thực vật này có nhiều tầng, cao từ 25 – 30 m, tán
kín rậm bởi những lồi cây gỗ lớn lá rộng thường xanh. Cấu trúc tầng thứ có 5 tầng :
– Tầng vượt tán A
1
: hình thành bởi những loài cây gỗ cao đến 40 – 50 m, phần lớn thuộc họ Dầu Dipterocarpaceae, họ Dâu tằm Moraceae, họ Đậu Leguminosae v.v… Phần lớn
là loài cây thường xanh nhưng cũng có lồi cây rụng lá trong mùa khơ rét. Tầng này thường không liên tục, tán cây xoè rộng hình ơ, hình tán.
21
– Tầng ưu thế sinh thái A
2
: Đây còn gọi là tầng lập quần bao gồm cây gỗ cao trung bình từ 20 – 30 m, thân thẳng, tán lá tròn và hẹp, tầng tán liên tục, phần lớn là những loài cây
thường xanh thuộc các họ Dẻ Fagaceae, họ Re Lauraceae, họ Vang Caesalpiniaceae, họ Trinh nữ Mimosaceae,
Hình số 4. Cây chò ngàn năm, Vườn quốc gia Cúc Phương, Ninh Bình Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới. Ảnh: VNTTX – Phạm Độ
22
Hình số 5. Bạnh vè cây rừng nhiệt đới, Vườn quốc gia Cát Tiên, Đồng Nai
Hình số 6. Cảnh quan sinh thái vườn quốc gia Phong Nha, Quảng Bình
23
Hình số 7. Cảnh quan sinh thái vườn quốc gia Cát Bà, Hải Phòng
Hình số 8. Phẫu diện rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới Theo Thái Văn Trừng
họ Cánh bướm Papilionaceae, họ Bồ hòn Sapindaceae, họ Xoan Meliaceae, họ Mộc lan Magnoliaceae, họ Trám Burseraceae v.v…
– Tầng dưới tán A
3
: cao từ 8 – 15 m, mọc rải rác dưới tán rừng, tán hình nón hoặc hình tháp ngược. Tổ thành lồi cây thuộc các họ Bứa Clusiaceae, họ Du Ulmaceae, họ Máu chó
Myristicaceae, họ Na Annonaceae, họ Mùng qn Flacourtiaceae v.v… Ngồi ra còn có cây con, cây nhỡ của các loài cây ở tầng A
1
và tầng A2 có khả năng chịu bóng. – Tầng cây bụi B: cao từ 2 – 8 m. Tổ thành loài cây thuộc các họ Cà phê Rubiaceae, họ
Trúc đào Apocynaceae, họ Cam quýt Rutaceae, họ Na Annonaceae, họ Mua Melastomaceae, họ Nhân sâm Araliaceae, họ Thầu dầu Euphorbiaceae v.v…Ngồi ra
còn có những cây gỗ giả thuộc họ Dừa Palmae, họ phụ Tre nứa Bambusoideae, họ Sẹ Scitaminaceae v.v…Trong tầng này còn có những lồi quyết thân gỗ, chịu được bóng
rợp. Tham gia tầng này còn có những cây con, cây nhỡ của những loài cây gỗ lớn ở tầng A
1
, A
2
, A
3
.
24
– Tầng cỏ quyết C: cao không quá 2 m. Tổ thành lồi cây thuộc các họ Ơ rơ Acanthaceae, họ Gai Urticaceae, họ Môn ráy Araceae, họ Gừng Zingiberaceae, họ Hành tỏi
Liliaceae và những loài dương xỉ v.v…Tham gia tầng này còn có những cây tái sinh của những loài cây gỗ lớn ở tầng A
1
, A
2
, A
3
. Ngồi 5 tầng trên, còn có nhiều thực vật ngoại tầng, chúng tham gia vào tất cả các tầng
trong hệ sinh thái rừng như dây leo, thực vật phụ sinh, thực vật kí sinh. Thực vật ngoại tầng đa dạng phong phú là một đặc điểm điển hình của rừng mưa nhiệt đới.
Dây leo có thể là thân gỗ hoặc thân cỏ thuộc các họ Đậu Leguminosae, họ Na Annonaceae, họ Trúc đào Apocynaceae, họ Gắm Gnetaceae v.v… Ngồi ra còn có những
lồi dây leo điển hình của rừng nhiệt đới thuộc họ Cọ dừa dài hàng trăm mét thuộc các chi Calamus, Daemonorops đặc hữu của vùng Đơng Nam Á.
Thực vật phụ sinh lồi thực vật sống nhờ vào những loài cây khác gồm những loài cây thuộc họ Phong lan Orchidaceae, họ Môn ráy Araceae, những loài quyết thuộc các chi
Asplenium, Drynaria, Platycerium, đặc biệt là những lồi cây sống nhờ cây kí chủ như loài đa Ficus, chân chim Schefflera và một loài Fragraea obovata trong họ Loganiaceae.
Thực vật kí sinh bao gồm những loài cây thuộc chi Loranthus trong họ Tầm gửi Loranthaceae, chi Balanophora trong họ Cu chó Balanophoraceae sống bám trên cành lá và rễ
cây.
b Cấu trúc tổ thành loài thực vật, các kiểu phụ và ưu hợp • Các kiểu phụ miền và ưu hợp:
Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ thực vật Malaixia – Inđônêxia, ưu hợp họ Dầu Dipterocarpaceae
Phân bố: Kiểu phụ miền này phân bố rất rộng. ở miền bắc Việt Nam, chúng phân bố dưới độ cao so với mặt biển từ 600 – 700 m, ở nam Trung Bộ dưới độ cao 800 – 900 m và ở Nam
Bộ dưới độ cao 1.000 m. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy kiểu phụ này ở các thung lũng giữa các núi đá vôi và vùng thấp ven các sơng lớn.
Cấu trúc tổ thành lồi cây gỗ lớn: Đặc trưng cơ bản dễ nhận biết của kiểu phụ này là độ ưu thế của các loài cây họ Dầu Dipterocarpaceae ở các tầng trên, nhất là tầng vượt tán và tầng
tán rừng. Phần lớn các loài cây rừng đều thường xanh như Sao đen Hopea odorata, Kiền kiền Hopea pierrei, Săng đào Hopea ferrea, Táu mặt quỉ Hopea mollissima, Táu lá nhỏ Vatica
tonkinensis, Táu muối Vatica fleuryana, Chò đen Parashorea stallata v.v… Ở miền Nam, đặc biệt là Tây Nguyên, loài cây tiêu biểu cho họ Dầu là cây Dầu rái Dipterocarpus alatus, Dầu
đồng Dipterocarpus turberculatus.
Ngoài cây họ Dầu Dipterocarpaceae, còn có những lồi cây bản địa thường xanh thuộc các chi :
– Sindora, Ormosia, Cassia v.v… thuộc họ Đậu Leguminosae – Lithocarpus, Castanopsis, Quercus v.v…thuộc họ Dẻ Fagaceae
– Syzygium, Eugenia thuộc họ Sim Myrtaceae – Camellia, Terstoemia, Schima thuộc họ Chè Theaceae
– Garcinia, Mesua, Calophyllum thuộc họ Bứa Clusiaceae – Dracotomelum, Bouea v.v… thuộc họ Xoài Anacardiaceae
25
– Aglaia, Aphanamixis, Dysoxylon, Chisocheton thuộc họ Xoan Meliaceae
Tổ thành loài cây bụi thường bao gồm những loài cây thuộc các chi : – Psychotria, Prismatomeris, Pagetta, Ixora, Lasianthus v.v… thuộc họ
Cà phê Rubiaceae – Ervatamia, Tabermontana, Rauwolfia v.v…thuộc họ Trúc đào Apocynaceae
– Ardisia, Maesa v.v… thuộc họ Đơn nem Myrsinaceae – Polyalthia v.v…thuộc họ Na Annonaceae
– Diospyros v.v…thuộc họ Thị Ebenaceae Ngồi ra còn có nhiều đại diện thuộc họ Dừa Palmae,
Tổ thành tầng cỏ quyết có nhiều dương xỉ. Đặc trưng cấu trúc cơ bản nhất của kiểu hệ sinh thái rừng này là có tổ thành lồi cây hỗn
giao phức tạp nhiều tầng, hình thành nên nhiều phức hợp trong đó có cả ưu hợp, thậm chí cả những quần thể rừng tự nhiên gần như thuần loài. Dưới đây chỉ giới thiệu những ưu hợp thực vật
rừng của những loài cây đặc hữu có giá trị kinh tế. Các ưu hợp :
– Ưu hợp Sao đen Hopea odorata Theo Maurand 1943, rừng sao nguyên sinh có ở Lý Lịt Nha Trang. Thái Văn Trừng
1952 cũng phát hiện rừng sao tự nhiên gần như thuần loài ở dốc Bút giữa Huế và Đà Nẵng, độ cao so với mực nước biển khoảng 500 – 600 m. Trên vĩ độ 16
o
Bắc bán cầu, chưa phát hiện thấy sao mọc tự nhiên. Sao là lồi cây ưa sáng, đòi hỏi đất phải tốt, sâu, ẩm. Sao trồng tại phố Lò Đúc
Hà Nội làm cây xanh bóng mát, sinh trưởng thân thẳng đẹp nhưng ra hoa kết quả kém. Điều này chứng tỏ Hà Nội và miền Bắc nói chung khơng còn là vùng phân bố tự nhiên của loài cây
Sao đen. Sao là lồi cây rừng nhiệt đới có giá trị, gỗ tốt dùng trong xây dựng, đóng tầu thuyền, cần được nghiên cứu bảo tồn, xúc tiến tái sinh tự nhiên và gây trồng phát triển.
– Ưu hợp Kiền kiền Hopea pierrei Kiền kiền là loài cây đặc hữu xuất hiện ở vùng trung gian giữa hai khu hệ thực vật Bắc và
Nam. Schmid đã phát hiện kiền kiền trong quần thể rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vùng thượng du Nam Bộ và nam Trường Sơn. Ở miền Bắc, Kiền kiền phân bố đến Quỳ Hợp, Nghĩa
Đàn Nghệ An và Như Xn Thanh Hố. Có thể xác định giới hạn phía bắc của lồi cây kiền kiền đến vĩ tuyến 20
o
C bắc bán cầu và ở dưới độ cao 350 m so với mực nước biển. Về điều kiện đất, ưu hợp này phát triển chủ yếu trên đất đỏ vàng Feralit và cũng có thể phát triển trên đất do đá
vơi phong hố. Kiền kiền có thể tham gia vào quần thể với tư cách là lồi cây ưu thế, có khi chiếm đến
70 cá thể ở tầng vượt tán. Chiều cao có thể đạt đến 23 – 25 m và đường kính trên 40 cm. Ở miền Nam, chúng mọc hỗn giao với một số loài cây họ Dầu Dipterocarpaceae và ở Nghệ An
mọc hỗn giao với các lồi cây Chò chỉ Parashorea chinensis, Lim xanh Erythrophleum fordii Olive v.v… Kiền kiền tái sinh mạnh ở những quần thể rừng có độ tàn che khoảng 0,6 – 0,7 với
đại diện ở nhiều kích thước khác nhau. Kiền kiền là lồi cây rừng bản địa đặc hữu có giá trị gỗ tốt, đẹp dùng trong xây dựng, đóng tầu thuyền, trang trí nội thất v.v… Cần nghiên cứu bảo tồn,
xúc tiến tái sinh tự nhiên loài cây này từ vĩ tuyến 20
o
trở vào.
26
– Ưu hợp Chò chỉ Parashorea chinensis
Chò chỉ là loài cây rừng đặc hữu ở vùng quá độ trung gian giữa hai khu hệ thực vật Nam và Bắc. Tuy nhiên, phân bố tự nhiên lồi chò chỉ có thể đến các thung lũng, lưu vực các sông ở
Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Ninh Bình, Thanh Hố, Nghệ An v.v…Phân bố tự nhiên theo độ cao của loài cây Kiền kiền tại Nghĩa Đàn Nghệ An đạt
đến độ cao 300 m so với mực nước biển. Chưa có tài liệu nào phát hiện chò chỉ ở khu hệ thực vật Vân Nam – Quảng Tây Trung Quốc, vì vậy có thể khẳng định đây là loài cây đặc hữu của khu
hệ thực vật Việt Nam.
Chò chỉ tham gia vào thành phần của quần thể rừng thường xanh, phân bố từ vĩ độ 16
o
– 22
o
B trên các loại đất đỏ vàng Feralit, yêu cầu độ ẩm đất lớn nên thường xuất hiện trong các thung lũng giữa các triền núi đá vôi, ven khe suối, sơng ngòi. Chò chỉ là lồi cây thường xanh
nhưng trong những năm khô rét kéo dài cũng rụng lá đồng loạt. Thân thẳng tròn, cao đến 40 – 50 m chiếm vị trí tầng vượt tán A
1
. Chò chỉ có thể mọc hỗn giao với Lim xanh Erythrophoeum fordii Olive và các loài cây rừng khác tạo thành một quần thể kín rậm có độ tàn che đến 0,7 –
0,8. Tái sinh cây mạ chò chỉ dưới tán rừng có nhiều nhưng cây con, cây nhỡ có rất ít. Điều đó chứng tỏ cậy mạ chò chỉ có khả năng chịu bóng, nhưng khi lớn lên nhu cầu ánh sáng ngày càng
nhiều nên không thể tồn tại được dưới tán rừng. Chò chỉ là lồi cây đặc hữu có giá trị cao, gỗ cứng bền, ít bị mối mọt dùng để đóng thuyền, làm cột buồm và các cơng trình xây dựng. Cần
nghiên cứu bảo tồn, xúc tiến tái sinh và gây trồng phát triển loài cây này. – Ưu hợp Chò nâu Dipterocarpus tonkinensis
Ưu hợp Chò nâu phân bố ở Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hoá v.v…Đây là vùng thấp có khí hậu ẩm ướt. Chò nâu cao đến 35 – 40 m thường chiếm vị trí tầng
vượt tán trong quần thể. Cây ra hoa kết quả hàng năm, sai quả, hạt dễ nảy mầm, có khả năng phát tán hạt giống đi xa nhờ quả có cánh. Gỗ Chò nâu khơng cứng như Chò chỉ nhưng nếu bảo quản
tốt thì có thể sử dụng để đóng thuyền. Một số địa phương ở Phú Thọ đã trồng Chò nâu hỗn giao với Mỡ Manglietia conifera trên đất rừng còn tốt ẩm.
– Ưu hợp Dầu rái Dipterocarpus alatus
Ưu hợp này phân bố chủ yếu ở miền Nam, từ Quảng Nam đến miền đơng Nam Bộ, đặc biệt có nhiều ở Tây Nguyên. Vũ Đức Minh 1963 phát hiện ưu hợp Dầu rái ở Bố Trạch Quảng
Bình Trong kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh, Dầu rái và Vên vên Anisoptera costata thường chiếm vị trí tầng A
1
. Những ưu hợp cây họ Dầu Dipterocarpaceae sẽ được trình bầy ở mục 8.3.5. Hệ sinh thái rừng thưa cây họ Dầu còn gọi là rừng khộp
– Các ưu hợp táu Vatica sp Ưu hợp Táu mặt quỷ Hopea mollissima
Ưu hợp này có nhiều ở Hương Sơn Hà Tĩnh. Táu mặt quỷ chiếm ưu thế trong quần thể rừng kín tán với độ tàn che 0,7 – 0,8, chiều cao đạt tới 30 – 35 m, mang đặc trưng điển hình của
cây rừng nhiệt đới là có bạnh vè cao đến 5 – 6 m. Táu mặt quỷ mọc hỗn giao với sấu Dracontomelum duperreanum và một số loài cây khác thuộc các chi Lindera, Litsea, Phoebe,
Cinnamomum chiếm vị trí tầng A
1
. Tầng A
2
gồm một số lồi cây như Nang trứng Horsfieldia amygdalina, Máu chó Knema conferta,
27
Hình số 9. Phẫu diện rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh Theo Phùng Ngọc Lan và Bùi Đình Tối
Trâm Syzygium sp.. Tầng A
3
có Bứa Garcinia oblongifolia, Ngát Gironniera subaequalis, Trám trắng Canarium album, re Cinnamomum sp.. Tầng cây bụi cao từ 5 – 7 m,
thưa thớt gồm loài cây Nhọ nồi Diospyros filipendula, Chẩn Microdesmis caeserfolia v.v…, một số loài cây trong họ Na Annonaceae, một số loài trong chi Litsea thuộc họ Re Lauraceae.
Tầng cỏ quyết rậm rạp gồm các loài dương xỉ thuộc các chi Asplenium, Diplazium, Tectaria v.v…Thực vật phụ sinh có nhiều, đặc biệt có lồi đa Ficus mọc trên các cây táu, cọ, sấu. Gỗ
Táu mặt quỷ cứng bền được sử dụng trong xây dựng và đóng thuyền. Cần xúc tiến tái sinh tự nhiên, có thể trồng trên đất rừng mới khai thác nhưng phải trồng hỗn lồi với những lồi cây mục
đích khác hoặc cây phù trợ. Ưu hợp Táu muối Vatica fleuryana
Ưu hợp này phân bố ở độ cao từ 300 – 800 m nhưng phân bố tập trung ở độ cao từ 600 – 700 m theo Viện Điều tra Quy hoạch rừng trên đất Feralit vàng đỏ có tầng đất khá dày. Ưu hợp
này có nhiều ở Hương Sơn Hà Tĩnh. Tổ thành loài cây của ưu hợp này phức tạp nhưng Táu muối vẫn chiếm ưu thế, độ tàn che của rừng 0,7 – 0,8, tầng tán liên tục. Ngồi táu muối còn có
Táu mặt quỷ, Lim xanh Erythrophloeum fordii Olive, một số loài cây trong họ Dẻ Fagaceae, họ Re Lauraceae v.v…Ở tầng dưới tán, Táu muối không chiếm ưu thế rõ rệt. Tầng cây bụi thảm
tươi thưa thớt, Tái sinh tốt nhưng phần lớn là cây mạ, chứng tỏ độ tàn che cao chỉ thích hợp cho những lồi cây mạ có khả năng chịu bóng. Cây con và cây nhỡ tái sinh thiếu ánh sáng không tồn
tại được. Gỗ Táu muối không bền, dễ bị mục nên cần được bảo quản trước khi sử dụng. Ưu hợp Táu mật lá nhỏ + Táu muối Vatica tonkinensis + Vatica fleuryana
Vũ Đức Minh đã gặp ưu hợp này tại Kỳ Lân Tuyên Quang ở độ cao 480 m so với mực nước biển. Táu mật lá nhỏ và táu muối chiếm ưu thế trong tổ thành tầng cây gỗ, cây cao đến 30
28
m, hỗn giao với Trám trắng Canarium album, Máu chó Knema conferta, Lòng mang Pterospermum lancaefolium v.v…
Tầng cây bụi thấp gồm có các lồi Gordonia sp, Ardisia sp, Alchornea rugosa, Psychotria montana, Chloranthus sp, Antidesma, Strobilanthes v.v…
Tầng cỏ quyết gồm có các lồi Panicum sp, Tectaria, Abacopteris, Scleria v.v… Vũ Đức Minh còn gặp ưu hợp này tại Vũ Lễ Thái Nguyên. Ở đây, Táu mật lá nhỏ mọc hỗn
giao với Sến mật Madhuca pasquieri, Trám đen Canarium nigrum, Ràng ràng mít Ormosia balansae, re Cinnamomun sp., kháo Phoebe sp., Ngát Gironniera subacqualis, Lọng bàng
Dillennia heterosealpa, Bứa Garcinia oblongifolia v.v…
Tầng cây bụi gồm có các lồi Ardisia conjugate, Psychotria montana, Phyllostachys sp, Melastoma sp, Annona sp v.v…
Tầng cỏ quyết có Tectaria quintaphylla, Selaginella rependa, Diplajium sp, Scleria herbacarpa v.v…
Cả hai ưu hợp này đều có Táu mật lá nhỏ tái sinh, cây cao đến 1 – 2m, cây mạ nhiều nhưng cây con và cây nhỡ ít. Lồi cây này cũng chỉ chịu bóng trong giai đoạn còn nhỏ.
Gỗ Táu mật lá nhỏ cứng bền được sử dụng trong các công trình xây dựng và đóng thuyền. Ưu hợp Vên vên Anisoptera costata
Ưu hợp này xuất hiện trong kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới vùng thấp. Việt Nam có hai lồi vên vên Anisoptera costata và Anisoptera glabra đều thuộc họ Dầu.
Chúng mọc hỗn giao với Dầu rái Dipterocarpus alatus. Trong kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới còn có nhiều ưu hợp cây họ
Dầu thuộc kiểu phụ miền thực vật Malaixia – Indonesia nhưng chưa phát hiện được hết, cần nghiên cứu bổ sung.
Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc khu hệ thực vật Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa. Kiểu phụ miền này thường ở vùng thấp, ở miền Bắc dưới độ cao 700 m so với mực nước
biển và trên đường đẳng nhiệt tháng lạnh nhất 20
o
C; ở miền Nam ở vùng thấp ẩm, dưới độ cao 1.000 m so với mực nước biển thuộc dãy Trường Sơn.
Kiểu này bao gồm nhiều ưu hợp họ như : – Ưu hợp họ Re Lauraceae
– Ưu hợp họ Dẻ Fagaceae – Ưu hợp họ Xoan Meliaceae
– Ưu hợp họ Dâu tằm Moraceae – Ưu hợp họ Mộc lan Magnoliaceae
– Ưu hợp họ Đậu Leguminosae – Ưu hợp họ Xoài Anacardiaceae
– Ưu hợp họ Trám Burseraceae – Ưu hợp họ Bồ hòn Sapindaceae
29
– Ưu hợp họ Hồng xiêm Sapotaceae – v.v…
Tổ thành loài cây phần lớn là thường xanh có xen lẫn một số lồi cây rụng lá, khơng có tầng vượt tán rõ rệt, cây có bạnh vè lớn. Tầng cây bụi thấp nhiều cây thuộc họ Cọ dừa
Palmaceae, họ phụ Tre nứa Bambusoidae. Dây leo thân gỗ và thực vật phụ sinh phong lan, mơn ráy v.v…có nhiều.
Trần Ngũ Phương và Vũ Đức Minh 1970 cũng phát hiện hai loại hình thực vật khí hậu ở đai thấp dưới 300 m so với mực nước biển là ưu hợp Lim xanh Erythrophoeum fordii Olive từ
đèo Ngang trở ra và ưu hợp gụ + huỷnh Sindora cochinchinensis + Tarrietia javanica từ đèo Ngang trở vào. Ở vành đai cao 300 – 700 m có ưu hợp Sến + Táu Madhuca pasquieri + Hopea
mollissima. Vành đai á nhiệt đới vùng núi có ưu hợp Dẻ Castanopsis. Những ưu hợp họ trong kiểu
phụ miền này còn có nhiều nhưng chưa phát hiện hết. Kiểu phụ thổ nhưỡng:
Đây là kiểu thảm thực vật rừng phụ hình thành do điều kiện thổ nhưỡng quyết định, mặc dù có chung điều kiện khí hậu như các kiểu thảm thực vật khác.
Kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên núi đá vôi Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi là một thí dụ điển hình xem mục 8.3.3.
Kiểu phụ thổ nhưỡng úng nước mặn Hệ sinh thái rừng ngập mặn là một thí dụ điển hình xem mục 8.3.6
3.1.4. Tái sinh và diễn thế rừng
Tác động của con người đến hệ sinh thái rừng rất đa dạng và phức tạp và ở những hình thức, mức độ khác nhau. Chính tác động này là nguyên nhân dẫn đến quá trình diễn thế thứ sinh
và tạo nên những kiểu phụ thứ sinh nhân tác. Trong quá trình diễn thế thứ sinh đã hình thành nên nhiều ưu hợp khác nhau tuỳ theo hình
thức, mức độ tác động của con người tiêu cực hay tích cực.
a Tác động phá hoại của con người: Sau nương rãy:
– Ưu hợp Mỡ + Ràng ràng mít Manglietia conifera + Ormosis balansae Ưu hợp này phân bố nhiều ở Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang v.v…Vùng này có chế độ
khí hậu mưa nhiều và ẩm, đất còn tính chất đất rừng. Ở Bắc Quang Hà Giang đã từng xuất hiện tái sinh ràng ràng thành những quần thể rừng phục hồi sau nương rẫy gần như thuần lồi. Mỡ và
Ràng ràng mít là hai lồi cây rừng ưa sáng nhưng có đời sống dài, đạt kích thước lớn. Đây là lồi cây tiên phong định cư. Nếu được bảo vệ nghiêm ngặt có thể phục hồi lại rừng có giá trị kinh tế.
– Ưu hợp hu đay + hu trâu + hu nâu + ba bét + ba soi + hu đen
Ưu hợp này xuất hiện nhiều ở vùng khí hậu ẩm như Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái v.v…Tái sinh nhiều lồi cây ưa sáng hình thành nên những ưu hợp gần như thuần loài như hu đay
Trema angustifolia, Ba bét Mallotus apelta, Hu đen Commersonia echinata, hu nâu Mallotus cochinchinensis, hỗn giao với Ba soi Macaranga denticulata. Ngoài ra, còn gặp tái
sinh của các lồi cây khác như Bồ đề Styrax tonkinensis, Màng tang Litsea citrata, Trẩu
30
Aleurites montana, Nứa lá to Schizostachyum funghomii, Mỡ Manglietia conifera, Lim xanh Erythropheoum fordii Olive v.v… Những loài cây hu là loài cây ưa sáng, mọc nhanh, đời
sống ngắn, chỉ là cây tiên phong tạm thời. Tuy nhiên, nếu được bảo vệ nghiêm ngặt thì dưới tán rừng sẽ xuất hiện tái sinh những loài cây chịu bóng, mọc chậm hơn và có giá trị kinh tế.
Mỗi vùng có điều kiện sinh thái, khu hệ thực vật địa phương khác nhau nên tổ thành quần thể phục hồi sau nương rẫy cũng khác nhau.
– Ưu hợp thân thảo
Hình số 10. Đốt rừng làm
31
H×nh sè 11. Diễn thế thứ sinh loại ẩm của thảm thực vật nhiệt đới vùng thấp ở tỉnh Yên Bái theo Thái Văn Trừng
Rừng kín thờng xanh ẩm nhiệt đới
nguyên sinh dẻ đá, dẻ gai+re, mò,cà lồ+ vàng
anh,ràng ràng+gội nếp, gội nớc, quyếch+ mỡ, giổi+trám trắng+chò
nâu+lim xanh+sến mật+táu lá nhỏ
Rừng kín cây gỗ lớn thứ sinh thờng xanh và
nửa rụng lá lim xanh+trám
trắng+ràng ràng+mỡ+chẹo+
dẻ đá,dẻ gai+re, kháo+chò nâu
bồ đề+lim xẹt+ ràng ràng+trám
+re, kháo+ dẻ đá, dẻ gai
Rừng kín cây gỗ thấp thứ sinh thờng xanh và
nửa rụng lá mỡ + hu +
ba soi + chĐo bå ®Ị + hu +
ba soi + lim xẹt
Rừng tre nứa xen cây gỗ
nứa năm + hu + ba soi + giang
nứa tép + bồ đề
Rừng tre nứa nứa năm + giang
nứa tép + giang gầy
Trảng cỏ thứ sinh cỏ lau + cỏ chít
cỏ chè vè+cỏ tranh
Đất ẩm mát,còn mùn và tơi xốp
Đất xói mòn, nông cạn, khô
nóng, cứng chặt
32 Hình số 12. Diễn thế thứ sinh loại khô của thảm thực vật rừng
ở vùng Biển Động, tỉnh Bắc Giang và Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. theo Thái Văn Trừng
QUầN HÖ X∙ HợP
lim xanh + sau sau + re + kháo + dẻ gai + dẻ đá
Rừng kín nửa rụng lá
sau sau + thành ngạnh
Rừng kín rụng lá
thành ngạnh + cỏ lào + thầu tấu + cỏ tranh
Rừng tha rụng lá
cỏ lào + cỏ tranh + cỏ chè vè + thầu tấu
Trảng cây bụi
Trảng cỏ thứ sinh cỏ tranh
cỏ chè vè Rừng kÝn th−êng xanh
lim xanh + sÕn mËt + t¸u l¸ nhỏ + dẻ gai + dẻ đá
+ re + kháo
33
u hợp thân thảo có nhiều như chuối rừng, lau, chít, chè vè v.v…Đất ở ưu hợp chuối rừng còn ẩm nhưng ở ưu hợp lau, chít, chè vè thì đất đã thối hố sang trạng thái xấu hơn.
+ Sau khai thác rừng : – Ưu hợp Lim xanh + Trám trắng Erythrophoeum fordii+ Canarium album
Ưu hợp này xuất hiện sau khai thác chọn ở những vùng có lim xanh phân bố. Chính những cây mẹ của thế hệ rừng cũ là nguồn hạt giống cho tái sinh rừng sau khai thác. Lim xanh là
loài cây ưa sáng nhưng chịu bóng trong giai đoạn còn nhỏ. Sau khi khai thác, tán rừng bị phá vỡ tạo điều kiện cho tái sinh lim xanh và các loài cây khác sinh trưởng phát triển tham gia vào tổ
thành của rừng. – Ưu hợp Nứa lá to Schizostachyum funghomii
Ưu hợp này phân bố ở dọc theo các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã, sông Chu, sông Chảy, sông Lơ v.v…Ưu hợp này có các tỉnh Lào Cai, n Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Bắc
Kạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh v.v…Tầng cây gỗ còn sót lại sau khai thác là Lim xanh Erythrophoeum fordii, Trám trắng Canarium album, Ngát
Gironniera subaequalis, Chò nâu Dipterocarpus tonkinensis v.v…Dưới tầng này là nứa phát triển dày đặc tạo thành tầng tán nứa liên tục có độ tàn che cao. Đây là nguyên nhân làm cho tái
sinh của những lồi cây gỗ rất khó khăn. Quần thể nứa ổn định trong thời gian dài vì khó có lồi cây nào cạnh tranh được với nứa. Chỉ trong trường hợp nứa bị khuy thì quần thể rừng nứa mới
được thay thế bằng một quần thể khác. – Ưu hợp Giang Maclurochloa sp.
Ưu hợp này phân bố nhiều ở vùng ẩm. Thân không mọc thẳng đứng mà chồng chéo lên nhau làm cho rừng kín rậm rạp. Tái sinh của các lồi cây gỗ rất khó khăn. Do vậy, quần thể rừng
giang tồn tại trong một thời gian dài. Đất dưới rừng giang không tốt lắm nên nhân dân có kinh nghiệm là khơng đốt rừng giang làm nương.
Những ưu hợp xuất hiện sau khai thác phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đó là tổ thành của rừng trước khai thác, tổ thành loài cây khai thác, cường độ và luân kỳ khai thác, kĩ thuật khai thác
và vận xuất v.v… Do vậy, mỗi địa phương có thể xuất hiện nhiều ưu hợp sau khai thác khác nhau.
b Tác động tích cực của con người Đây là những kiểu phụ nuôi trồng nhân tạo. Con người trồng rừng mới như rừng thông,
mỡ, bạch đàn, bồ đề, luồng, phi lao, đước v.v…xem chương Trồng rừng trong Cẩm nang ngành lâm nghiệp
34
Hình số 13. Rừng trồng bạch đàn E. urophylla, Tuyên Quang
35
Hình số 14. Voi rừng nhiệt đới Tây Nguyên, Việt nam
Hình số 15. Hổ, động vật quí hiếm, trong rừng nhiệt đới Việt Nam
3.1.5. Ý nghĩa kinh tế, phòng hộ và khoa học
Hệ sinh thái rừng này phân bố rộng trên các tỉnh trung du và miền núi Việt Nam. Trữ lượng gỗ ở rừng nguyên sinh có thể đạt đến 400 – 500 m
3
ha, trong đó có nhiều lồi gỗ q nhiệt đới và là loài bản địa đặc hữu của Việt Nam có giá trị sử dụng cao như đinh, lim, sến, táu v.v…và
đặc biệt là có nhiều lồi lâm sản ngồi gỗ có giá trị như dược liệu q, nhiều loài cây cho nhựa và tinh dầu v.v…Đây là đối tượng rừng khai thác trong nhiều năm qua và đã cung cấp một khối
lượng lớn gỗ xây dựng, nguyên liệu công nghiệp chế biến lâm sản v.v… cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do khai thác chạy theo kế hoạch trong thời kinh tế bao cấp, khai thác không đúng
kĩ thuật, không bảo đảm tái sinh rừng nên diện tích và trữ lượng rừng đã bị suy giảm. Tỉ lệ rừng thứ sinh nghèo kiệt tăng lên. Trong những năm gần đây, ngành lâm nghiệp đã có chủ trương hạn
chế lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên, tiến tới đóng cửa rừng tự nhiên. Ngồi ra, nhiều khu rừng nguyên thuỷ nhiệt đới như Cúc Phương Ninh Bình, Phong Nha – Kẻ Bàng Quảng Bình, Bạch
Mã Thừa Thiên – Huế, Cát Tiên Đồng Nai v.v…đã, đang và sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn từ du lịch sinh thái.
Hệ sinh thái rừng này phân bố ở hầu hết các vùng đầu nguồn của các con sông lớn ở Việt Nam. Đây là kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới điển hình được đặc trưng bởi rừng lá rộng thường
xanh hỗn giao phức tạp nhiều tầng tán. Có thể coi những đặc trưng này là mơ hình chuẩn đáp ứng tối ưu cho yêu cầu phòng hộ đầu nguồn ở miền núi và trung du. Trên thực tế, kiểu hệ sinh
thái rừng này đã và đang giữ vai trò cực kì quan trọng cho việc ni dưỡng nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, hạn chế lũ lụt cho cả vùng đồng bằng, đô thị và ven biển Việt Nam.
Hệ sinh thái rừng nhiệt đới này có tính đa dạng sinh học cao cả về đa dạng nguồn gen, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái. Trong hệ sinh thái này có nhiều lồi thực vật động vật rừng q
hiếm, có lồi đang bị đe doạ diệt chủng cần được bảo tồn nghiêm ngặt và phát triển. Đây là đối
36
tượng nghiên cứu khoa học của các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và nhiều cơ quan nghiên cứu trong và ngoài ngành lâm nghiệp. Dưới tấm màn xanh của những hệ sinh thái rừng
nhiệt đới này vẫn còn chứa đựng biết bao điều bí ẩn mà các nhà lâm sinh học Việt Nam chưa phát hiện được.

3.2. Hệ sinh thái rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới

3.1.1. Phân bố- Những hệ sinh thái rừng thuộc kiểu thảm thực vật này rất phong phú và đa dạng, phân bố ở các tỉnh: Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Lào Cai,Ninh Bình Cúc Phương, Thanh Hố, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Tây Nguyên v.v…- Phân bố theo độ cao so với mực nước biển: Ở miền Bắc: dưới 700 mỞ miền Nam: dưới 1.000 m3.1.2. Điều kiện sinh thái- Khí hậu: Nhiệt độ khơng khí trung bình hàng năm từ 20 – 25C, nhiệt độ không khí trung bình tháng lạnh nhất từ 15 – 20C. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 mm – 2.500 mm, nhiều vùng có lượng mưarất cao từ 3.000 mm – 4.000 mm Chỉ số khô hạn chung: 3 – 0 – 0 Hàng năm khơng có tháng hạn, tháng kiệt, chỉ có 3tháng khơ. Độ ẩm khơng khí tương đối trung bình trên 85 Lượng bốc hơi thường thấp.- Đất: Đá mẹ: đá nai gneiss, phiến thạch mica micaschiste, phiến sa thạch gres schisteux, vi hoa cương microgranit, lưu vân rioolit, hoa cương granit, huyền vũ bazan v.v…Đất địa đới của vành đai nhiệt đới ẩm vùng thấp Đất đỏ vàng Feralit hoàn toàn thành thục, sâu, dày, khơng có tầng đá ong.Đất đỏ hung terra rossa nhiệt đới phong hố trên đá vơi và trên đất bồi tụ trong thung lũng dưới chân các núi đá vôi. Theo Friedland, đây là loại đất đen macgalit.3.1.3. Cấu trúc rừnga Cấu trúc tầng thứ Những hệ sinh thái rừng thuộc kiểu thảm thực vật này có nhiều tầng, cao từ 25 – 30 m, tánkín rậm bởi những lồi cây gỗ lớn lá rộng thường xanh. Cấu trúc tầng thứ có 5 tầng :- Tầng vượt tán A: hình thành bởi những loài cây gỗ cao đến 40 – 50 m, phần lớn thuộc họ Dầu Dipterocarpaceae, họ Dâu tằm Moraceae, họ Đậu Leguminosae v.v… Phần lớnlà loài cây thường xanh nhưng cũng có lồi cây rụng lá trong mùa khơ rét. Tầng này thường không liên tục, tán cây xoè rộng hình ơ, hình tán.21- Tầng ưu thế sinh thái A: Đây còn gọi là tầng lập quần bao gồm cây gỗ cao trung bình từ 20 – 30 m, thân thẳng, tán lá tròn và hẹp, tầng tán liên tục, phần lớn là những loài câythường xanh thuộc các họ Dẻ Fagaceae, họ Re Lauraceae, họ Vang Caesalpiniaceae, họ Trinh nữ Mimosaceae,Hình số 4. Cây chò ngàn năm, Vườn quốc gia Cúc Phương, Ninh Bình Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới. Ảnh: VNTTX – Phạm Độ22Hình số 5. Bạnh vè cây rừng nhiệt đới, Vườn quốc gia Cát Tiên, Đồng NaiHình số 6. Cảnh quan sinh thái vườn quốc gia Phong Nha, Quảng Bình23Hình số 7. Cảnh quan sinh thái vườn quốc gia Cát Bà, Hải PhòngHình số 8. Phẫu diện rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới Theo Thái Văn Trừnghọ Cánh bướm Papilionaceae, họ Bồ hòn Sapindaceae, họ Xoan Meliaceae, họ Mộc lan Magnoliaceae, họ Trám Burseraceae v.v…- Tầng dưới tán A: cao từ 8 – 15 m, mọc rải rác dưới tán rừng, tán hình nón hoặc hình tháp ngược. Tổ thành lồi cây thuộc các họ Bứa Clusiaceae, họ Du Ulmaceae, họ Máu chóMyristicaceae, họ Na Annonaceae, họ Mùng qn Flacourtiaceae v.v… Ngồi ra còn có cây con, cây nhỡ của các loài cây ở tầng Avà tầng A2 có khả năng chịu bóng. – Tầng cây bụi B: cao từ 2 – 8 m. Tổ thành loài cây thuộc các họ Cà phê Rubiaceae, họTrúc đào Apocynaceae, họ Cam quýt Rutaceae, họ Na Annonaceae, họ Mua Melastomaceae, họ Nhân sâm Araliaceae, họ Thầu dầu Euphorbiaceae v.v…Ngồi racòn có những cây gỗ giả thuộc họ Dừa Palmae, họ phụ Tre nứa Bambusoideae, họ Sẹ Scitaminaceae v.v…Trong tầng này còn có những lồi quyết thân gỗ, chịu được bóngrợp. Tham gia tầng này còn có những cây con, cây nhỡ của những loài cây gỗ lớn ở tầng A, A, A24- Tầng cỏ quyết C: cao không quá 2 m. Tổ thành lồi cây thuộc các họ Ơ rơ Acanthaceae, họ Gai Urticaceae, họ Môn ráy Araceae, họ Gừng Zingiberaceae, họ Hành tỏiLiliaceae và những loài dương xỉ v.v…Tham gia tầng này còn có những cây tái sinh của những loài cây gỗ lớn ở tầng A, A, A. Ngồi 5 tầng trên, còn có nhiều thực vật ngoại tầng, chúng tham gia vào tất cả các tầngtrong hệ sinh thái rừng như dây leo, thực vật phụ sinh, thực vật kí sinh. Thực vật ngoại tầng đa dạng phong phú là một đặc điểm điển hình của rừng mưa nhiệt đới.Dây leo có thể là thân gỗ hoặc thân cỏ thuộc các họ Đậu Leguminosae, họ Na Annonaceae, họ Trúc đào Apocynaceae, họ Gắm Gnetaceae v.v… Ngồi ra còn có nhữnglồi dây leo điển hình của rừng nhiệt đới thuộc họ Cọ dừa dài hàng trăm mét thuộc các chi Calamus, Daemonorops đặc hữu của vùng Đơng Nam Á.Thực vật phụ sinh lồi thực vật sống nhờ vào những loài cây khác gồm những loài cây thuộc họ Phong lan Orchidaceae, họ Môn ráy Araceae, những loài quyết thuộc các chiAsplenium, Drynaria, Platycerium, đặc biệt là những lồi cây sống nhờ cây kí chủ như loài đa Ficus, chân chim Schefflera và một loài Fragraea obovata trong họ Loganiaceae.Thực vật kí sinh bao gồm những loài cây thuộc chi Loranthus trong họ Tầm gửi Loranthaceae, chi Balanophora trong họ Cu chó Balanophoraceae sống bám trên cành lá và rễcây.b Cấu trúc tổ thành loài thực vật, các kiểu phụ và ưu hợp • Các kiểu phụ miền và ưu hợp:Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ thực vật Malaixia – Inđônêxia, ưu hợp họ Dầu DipterocarpaceaePhân bố: Kiểu phụ miền này phân bố rất rộng. ở miền bắc Việt Nam, chúng phân bố dưới độ cao so với mặt biển từ 600 – 700 m, ở nam Trung Bộ dưới độ cao 800 – 900 m và ở NamBộ dưới độ cao 1.000 m. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy kiểu phụ này ở các thung lũng giữa các núi đá vôi và vùng thấp ven các sơng lớn.Cấu trúc tổ thành lồi cây gỗ lớn: Đặc trưng cơ bản dễ nhận biết của kiểu phụ này là độ ưu thế của các loài cây họ Dầu Dipterocarpaceae ở các tầng trên, nhất là tầng vượt tán và tầngtán rừng. Phần lớn các loài cây rừng đều thường xanh như Sao đen Hopea odorata, Kiền kiền Hopea pierrei, Săng đào Hopea ferrea, Táu mặt quỉ Hopea mollissima, Táu lá nhỏ Vaticatonkinensis, Táu muối Vatica fleuryana, Chò đen Parashorea stallata v.v… Ở miền Nam, đặc biệt là Tây Nguyên, loài cây tiêu biểu cho họ Dầu là cây Dầu rái Dipterocarpus alatus, Dầuđồng Dipterocarpus turberculatus.Ngoài cây họ Dầu Dipterocarpaceae, còn có những lồi cây bản địa thường xanh thuộc các chi :- Sindora, Ormosia, Cassia v.v… thuộc họ Đậu Leguminosae – Lithocarpus, Castanopsis, Quercus v.v…thuộc họ Dẻ Fagaceae- Syzygium, Eugenia thuộc họ Sim Myrtaceae – Camellia, Terstoemia, Schima thuộc họ Chè Theaceae- Garcinia, Mesua, Calophyllum thuộc họ Bứa Clusiaceae – Dracotomelum, Bouea v.v… thuộc họ Xoài Anacardiaceae25- Aglaia, Aphanamixis, Dysoxylon, Chisocheton thuộc họ Xoan MeliaceaeTổ thành loài cây bụi thường bao gồm những loài cây thuộc các chi : – Psychotria, Prismatomeris, Pagetta, Ixora, Lasianthus v.v… thuộc họCà phê Rubiaceae – Ervatamia, Tabermontana, Rauwolfia v.v…thuộc họ Trúc đào Apocynaceae- Ardisia, Maesa v.v… thuộc họ Đơn nem Myrsinaceae – Polyalthia v.v…thuộc họ Na Annonaceae- Diospyros v.v…thuộc họ Thị Ebenaceae Ngồi ra còn có nhiều đại diện thuộc họ Dừa Palmae,Tổ thành tầng cỏ quyết có nhiều dương xỉ. Đặc trưng cấu trúc cơ bản nhất của kiểu hệ sinh thái rừng này là có tổ thành lồi cây hỗngiao phức tạp nhiều tầng, hình thành nên nhiều phức hợp trong đó có cả ưu hợp, thậm chí cả những quần thể rừng tự nhiên gần như thuần loài. Dưới đây chỉ giới thiệu những ưu hợp thực vậtrừng của những loài cây đặc hữu có giá trị kinh tế. Các ưu hợp :- Ưu hợp Sao đen Hopea odorata Theo Maurand 1943, rừng sao nguyên sinh có ở Lý Lịt Nha Trang. Thái Văn Trừng1952 cũng phát hiện rừng sao tự nhiên gần như thuần loài ở dốc Bút giữa Huế và Đà Nẵng, độ cao so với mực nước biển khoảng 500 – 600 m. Trên vĩ độ 16Bắc bán cầu, chưa phát hiện thấy sao mọc tự nhiên. Sao là lồi cây ưa sáng, đòi hỏi đất phải tốt, sâu, ẩm. Sao trồng tại phố Lò ĐúcHà Nội làm cây xanh bóng mát, sinh trưởng thân thẳng đẹp nhưng ra hoa kết quả kém. Điều này chứng tỏ Hà Nội và miền Bắc nói chung khơng còn là vùng phân bố tự nhiên của loài câySao đen. Sao là lồi cây rừng nhiệt đới có giá trị, gỗ tốt dùng trong xây dựng, đóng tầu thuyền, cần được nghiên cứu bảo tồn, xúc tiến tái sinh tự nhiên và gây trồng phát triển.- Ưu hợp Kiền kiền Hopea pierrei Kiền kiền là loài cây đặc hữu xuất hiện ở vùng trung gian giữa hai khu hệ thực vật Bắc vàNam. Schmid đã phát hiện kiền kiền trong quần thể rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vùng thượng du Nam Bộ và nam Trường Sơn. Ở miền Bắc, Kiền kiền phân bố đến Quỳ Hợp, NghĩaĐàn Nghệ An và Như Xn Thanh Hố. Có thể xác định giới hạn phía bắc của lồi cây kiền kiền đến vĩ tuyến 20C bắc bán cầu và ở dưới độ cao 350 m so với mực nước biển. Về điều kiện đất, ưu hợp này phát triển chủ yếu trên đất đỏ vàng Feralit và cũng có thể phát triển trên đất do đávơi phong hố. Kiền kiền có thể tham gia vào quần thể với tư cách là lồi cây ưu thế, có khi chiếm đến70 cá thể ở tầng vượt tán. Chiều cao có thể đạt đến 23 – 25 m và đường kính trên 40 cm. Ở miền Nam, chúng mọc hỗn giao với một số loài cây họ Dầu Dipterocarpaceae và ở Nghệ Anmọc hỗn giao với các lồi cây Chò chỉ Parashorea chinensis, Lim xanh Erythrophleum fordii Olive v.v… Kiền kiền tái sinh mạnh ở những quần thể rừng có độ tàn che khoảng 0,6 – 0,7 vớiđại diện ở nhiều kích thước khác nhau. Kiền kiền là lồi cây rừng bản địa đặc hữu có giá trị gỗ tốt, đẹp dùng trong xây dựng, đóng tầu thuyền, trang trí nội thất v.v… Cần nghiên cứu bảo tồn,xúc tiến tái sinh tự nhiên loài cây này từ vĩ tuyến 20trở vào.26- Ưu hợp Chò chỉ Parashorea chinensisChò chỉ là loài cây rừng đặc hữu ở vùng quá độ trung gian giữa hai khu hệ thực vật Nam và Bắc. Tuy nhiên, phân bố tự nhiên lồi chò chỉ có thể đến các thung lũng, lưu vực các sông ởLào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Ninh Bình, Thanh Hố, Nghệ An v.v…Phân bố tự nhiên theo độ cao của loài cây Kiền kiền tại Nghĩa Đàn Nghệ An đạtđến độ cao 300 m so với mực nước biển. Chưa có tài liệu nào phát hiện chò chỉ ở khu hệ thực vật Vân Nam – Quảng Tây Trung Quốc, vì vậy có thể khẳng định đây là loài cây đặc hữu của khuhệ thực vật Việt Nam.Chò chỉ tham gia vào thành phần của quần thể rừng thường xanh, phân bố từ vĩ độ 16- 22B trên các loại đất đỏ vàng Feralit, yêu cầu độ ẩm đất lớn nên thường xuất hiện trong các thung lũng giữa các triền núi đá vôi, ven khe suối, sơng ngòi. Chò chỉ là lồi cây thường xanhnhưng trong những năm khô rét kéo dài cũng rụng lá đồng loạt. Thân thẳng tròn, cao đến 40 – 50 m chiếm vị trí tầng vượt tán A. Chò chỉ có thể mọc hỗn giao với Lim xanh Erythrophoeum fordii Olive và các loài cây rừng khác tạo thành một quần thể kín rậm có độ tàn che đến 0,7 -0,8. Tái sinh cây mạ chò chỉ dưới tán rừng có nhiều nhưng cây con, cây nhỡ có rất ít. Điều đó chứng tỏ cậy mạ chò chỉ có khả năng chịu bóng, nhưng khi lớn lên nhu cầu ánh sáng ngày càngnhiều nên không thể tồn tại được dưới tán rừng. Chò chỉ là lồi cây đặc hữu có giá trị cao, gỗ cứng bền, ít bị mối mọt dùng để đóng thuyền, làm cột buồm và các cơng trình xây dựng. Cầnnghiên cứu bảo tồn, xúc tiến tái sinh và gây trồng phát triển loài cây này. – Ưu hợp Chò nâu Dipterocarpus tonkinensisƯu hợp Chò nâu phân bố ở Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hoá v.v…Đây là vùng thấp có khí hậu ẩm ướt. Chò nâu cao đến 35 – 40 m thường chiếm vị trí tầngvượt tán trong quần thể. Cây ra hoa kết quả hàng năm, sai quả, hạt dễ nảy mầm, có khả năng phát tán hạt giống đi xa nhờ quả có cánh. Gỗ Chò nâu khơng cứng như Chò chỉ nhưng nếu bảo quảntốt thì có thể sử dụng để đóng thuyền. Một số địa phương ở Phú Thọ đã trồng Chò nâu hỗn giao với Mỡ Manglietia conifera trên đất rừng còn tốt ẩm.- Ưu hợp Dầu rái Dipterocarpus alatusƯu hợp này phân bố chủ yếu ở miền Nam, từ Quảng Nam đến miền đơng Nam Bộ, đặc biệt có nhiều ở Tây Nguyên. Vũ Đức Minh 1963 phát hiện ưu hợp Dầu rái ở Bố Trạch QuảngBình Trong kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh, Dầu rái và Vên vên Anisoptera costata thường chiếm vị trí tầng A. Những ưu hợp cây họ Dầu Dipterocarpaceae sẽ được trình bầy ở mục 8.3.5. Hệ sinh thái rừng thưa cây họ Dầu còn gọi là rừng khộp- Các ưu hợp táu Vatica sp Ưu hợp Táu mặt quỷ Hopea mollissimaƯu hợp này có nhiều ở Hương Sơn Hà Tĩnh. Táu mặt quỷ chiếm ưu thế trong quần thể rừng kín tán với độ tàn che 0,7 – 0,8, chiều cao đạt tới 30 – 35 m, mang đặc trưng điển hình củacây rừng nhiệt đới là có bạnh vè cao đến 5 – 6 m. Táu mặt quỷ mọc hỗn giao với sấu Dracontomelum duperreanum và một số loài cây khác thuộc các chi Lindera, Litsea, Phoebe,Cinnamomum chiếm vị trí tầng A. Tầng Agồm một số lồi cây như Nang trứng Horsfieldia amygdalina, Máu chó Knema conferta,27Hình số 9. Phẫu diện rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh Theo Phùng Ngọc Lan và Bùi Đình TốiTrâm Syzygium sp.. Tầng Acó Bứa Garcinia oblongifolia, Ngát Gironniera subaequalis, Trám trắng Canarium album, re Cinnamomum sp.. Tầng cây bụi cao từ 5 – 7 m,thưa thớt gồm loài cây Nhọ nồi Diospyros filipendula, Chẩn Microdesmis caeserfolia v.v…, một số loài cây trong họ Na Annonaceae, một số loài trong chi Litsea thuộc họ Re Lauraceae.Tầng cỏ quyết rậm rạp gồm các loài dương xỉ thuộc các chi Asplenium, Diplazium, Tectaria v.v…Thực vật phụ sinh có nhiều, đặc biệt có lồi đa Ficus mọc trên các cây táu, cọ, sấu. GỗTáu mặt quỷ cứng bền được sử dụng trong xây dựng và đóng thuyền. Cần xúc tiến tái sinh tự nhiên, có thể trồng trên đất rừng mới khai thác nhưng phải trồng hỗn lồi với những lồi cây mụcđích khác hoặc cây phù trợ. Ưu hợp Táu muối Vatica fleuryanaƯu hợp này phân bố ở độ cao từ 300 – 800 m nhưng phân bố tập trung ở độ cao từ 600 – 700 m theo Viện Điều tra Quy hoạch rừng trên đất Feralit vàng đỏ có tầng đất khá dày. Ưu hợpnày có nhiều ở Hương Sơn Hà Tĩnh. Tổ thành loài cây của ưu hợp này phức tạp nhưng Táu muối vẫn chiếm ưu thế, độ tàn che của rừng 0,7 – 0,8, tầng tán liên tục. Ngồi táu muối còn cóTáu mặt quỷ, Lim xanh Erythrophloeum fordii Olive, một số loài cây trong họ Dẻ Fagaceae, họ Re Lauraceae v.v…Ở tầng dưới tán, Táu muối không chiếm ưu thế rõ rệt. Tầng cây bụi thảmtươi thưa thớt, Tái sinh tốt nhưng phần lớn là cây mạ, chứng tỏ độ tàn che cao chỉ thích hợp cho những lồi cây mạ có khả năng chịu bóng. Cây con và cây nhỡ tái sinh thiếu ánh sáng không tồntại được. Gỗ Táu muối không bền, dễ bị mục nên cần được bảo quản trước khi sử dụng. Ưu hợp Táu mật lá nhỏ + Táu muối Vatica tonkinensis + Vatica fleuryanaVũ Đức Minh đã gặp ưu hợp này tại Kỳ Lân Tuyên Quang ở độ cao 480 m so với mực nước biển. Táu mật lá nhỏ và táu muối chiếm ưu thế trong tổ thành tầng cây gỗ, cây cao đến 3028m, hỗn giao với Trám trắng Canarium album, Máu chó Knema conferta, Lòng mang Pterospermum lancaefolium v.v…Tầng cây bụi thấp gồm có các lồi Gordonia sp, Ardisia sp, Alchornea rugosa, Psychotria montana, Chloranthus sp, Antidesma, Strobilanthes v.v…Tầng cỏ quyết gồm có các lồi Panicum sp, Tectaria, Abacopteris, Scleria v.v… Vũ Đức Minh còn gặp ưu hợp này tại Vũ Lễ Thái Nguyên. Ở đây, Táu mật lá nhỏ mọc hỗngiao với Sến mật Madhuca pasquieri, Trám đen Canarium nigrum, Ràng ràng mít Ormosia balansae, re Cinnamomun sp., kháo Phoebe sp., Ngát Gironniera subacqualis, Lọng bàngDillennia heterosealpa, Bứa Garcinia oblongifolia v.v…Tầng cây bụi gồm có các lồi Ardisia conjugate, Psychotria montana, Phyllostachys sp, Melastoma sp, Annona sp v.v…Tầng cỏ quyết có Tectaria quintaphylla, Selaginella rependa, Diplajium sp, Scleria herbacarpa v.v…Cả hai ưu hợp này đều có Táu mật lá nhỏ tái sinh, cây cao đến 1 – 2m, cây mạ nhiều nhưng cây con và cây nhỡ ít. Lồi cây này cũng chỉ chịu bóng trong giai đoạn còn nhỏ.Gỗ Táu mật lá nhỏ cứng bền được sử dụng trong các công trình xây dựng và đóng thuyền. Ưu hợp Vên vên Anisoptera costataƯu hợp này xuất hiện trong kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới vùng thấp. Việt Nam có hai lồi vên vên Anisoptera costata và Anisoptera glabra đều thuộc họ Dầu.Chúng mọc hỗn giao với Dầu rái Dipterocarpus alatus. Trong kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới còn có nhiều ưu hợp cây họDầu thuộc kiểu phụ miền thực vật Malaixia – Indonesia nhưng chưa phát hiện được hết, cần nghiên cứu bổ sung.Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc khu hệ thực vật Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa. Kiểu phụ miền này thường ở vùng thấp, ở miền Bắc dưới độ cao 700 m so với mực nướcbiển và trên đường đẳng nhiệt tháng lạnh nhất 20C; ở miền Nam ở vùng thấp ẩm, dưới độ cao 1.000 m so với mực nước biển thuộc dãy Trường Sơn.Kiểu này bao gồm nhiều ưu hợp họ như : – Ưu hợp họ Re Lauraceae- Ưu hợp họ Dẻ Fagaceae – Ưu hợp họ Xoan Meliaceae- Ưu hợp họ Dâu tằm Moraceae – Ưu hợp họ Mộc lan Magnoliaceae- Ưu hợp họ Đậu Leguminosae – Ưu hợp họ Xoài Anacardiaceae- Ưu hợp họ Trám Burseraceae – Ưu hợp họ Bồ hòn Sapindaceae29- Ưu hợp họ Hồng xiêm Sapotaceae – v.v…Tổ thành loài cây phần lớn là thường xanh có xen lẫn một số lồi cây rụng lá, khơng có tầng vượt tán rõ rệt, cây có bạnh vè lớn. Tầng cây bụi thấp nhiều cây thuộc họ Cọ dừaPalmaceae, họ phụ Tre nứa Bambusoidae. Dây leo thân gỗ và thực vật phụ sinh phong lan, mơn ráy v.v…có nhiều.Trần Ngũ Phương và Vũ Đức Minh 1970 cũng phát hiện hai loại hình thực vật khí hậu ở đai thấp dưới 300 m so với mực nước biển là ưu hợp Lim xanh Erythrophoeum fordii Olive từđèo Ngang trở ra và ưu hợp gụ + huỷnh Sindora cochinchinensis + Tarrietia javanica từ đèo Ngang trở vào. Ở vành đai cao 300 – 700 m có ưu hợp Sến + Táu Madhuca pasquieri + Hopeamollissima. Vành đai á nhiệt đới vùng núi có ưu hợp Dẻ Castanopsis. Những ưu hợp họ trong kiểuphụ miền này còn có nhiều nhưng chưa phát hiện hết. Kiểu phụ thổ nhưỡng:Đây là kiểu thảm thực vật rừng phụ hình thành do điều kiện thổ nhưỡng quyết định, mặc dù có chung điều kiện khí hậu như các kiểu thảm thực vật khác.Kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên núi đá vôi Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi là một thí dụ điển hình xem mục 8.3.3.Kiểu phụ thổ nhưỡng úng nước mặn Hệ sinh thái rừng ngập mặn là một thí dụ điển hình xem mục 8.3.63.1.4. Tái sinh và diễn thế rừngTác động của con người đến hệ sinh thái rừng rất đa dạng và phức tạp và ở những hình thức, mức độ khác nhau. Chính tác động này là nguyên nhân dẫn đến quá trình diễn thế thứ sinhvà tạo nên những kiểu phụ thứ sinh nhân tác. Trong quá trình diễn thế thứ sinh đã hình thành nên nhiều ưu hợp khác nhau tuỳ theo hìnhthức, mức độ tác động của con người tiêu cực hay tích cực.a Tác động phá hoại của con người: Sau nương rãy:- Ưu hợp Mỡ + Ràng ràng mít Manglietia conifera + Ormosis balansae Ưu hợp này phân bố nhiều ở Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang v.v…Vùng này có chế độkhí hậu mưa nhiều và ẩm, đất còn tính chất đất rừng. Ở Bắc Quang Hà Giang đã từng xuất hiện tái sinh ràng ràng thành những quần thể rừng phục hồi sau nương rẫy gần như thuần lồi. Mỡ vàRàng ràng mít là hai lồi cây rừng ưa sáng nhưng có đời sống dài, đạt kích thước lớn. Đây là lồi cây tiên phong định cư. Nếu được bảo vệ nghiêm ngặt có thể phục hồi lại rừng có giá trị kinh tế.- Ưu hợp hu đay + hu trâu + hu nâu + ba bét + ba soi + hu đenƯu hợp này xuất hiện nhiều ở vùng khí hậu ẩm như Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái v.v…Tái sinh nhiều lồi cây ưa sáng hình thành nên những ưu hợp gần như thuần loài như hu đayTrema angustifolia, Ba bét Mallotus apelta, Hu đen Commersonia echinata, hu nâu Mallotus cochinchinensis, hỗn giao với Ba soi Macaranga denticulata. Ngoài ra, còn gặp táisinh của các lồi cây khác như Bồ đề Styrax tonkinensis, Màng tang Litsea citrata, Trẩu30Aleurites montana, Nứa lá to Schizostachyum funghomii, Mỡ Manglietia conifera, Lim xanh Erythropheoum fordii Olive v.v… Những loài cây hu là loài cây ưa sáng, mọc nhanh, đờisống ngắn, chỉ là cây tiên phong tạm thời. Tuy nhiên, nếu được bảo vệ nghiêm ngặt thì dưới tán rừng sẽ xuất hiện tái sinh những loài cây chịu bóng, mọc chậm hơn và có giá trị kinh tế.Mỗi vùng có điều kiện sinh thái, khu hệ thực vật địa phương khác nhau nên tổ thành quần thể phục hồi sau nương rẫy cũng khác nhau.- Ưu hợp thân thảoHình số 10. Đốt rừng làm31H×nh sè 11. Diễn thế thứ sinh loại ẩm của thảm thực vật nhiệt đới vùng thấp ở tỉnh Yên Bái theo Thái Văn TrừngRừng kín thờng xanh ẩm nhiệt đớinguyên sinh dẻ đá, dẻ gai+re, mò,cà lồ+ vànganh,ràng ràng+gội nếp, gội nớc, quyếch+ mỡ, giổi+trám trắng+chònâu+lim xanh+sến mật+táu lá nhỏRừng kín cây gỗ lớn thứ sinh thờng xanh vànửa rụng lá lim xanh+trámtrắng+ràng ràng+mỡ+chẹo+dẻ đá,dẻ gai+re, kháo+chò nâubồ đề+lim xẹt+ ràng ràng+trám+re, kháo+ dẻ đá, dẻ gaiRừng kín cây gỗ thấp thứ sinh thờng xanh vànửa rụng lá mỡ + hu +ba soi + chĐo bå ®Ị + hu +ba soi + lim xẹtRừng tre nứa xen cây gỗnứa năm + hu + ba soi + giangnứa tép + bồ đềRừng tre nứa nứa năm + giangnứa tép + giang gầyTrảng cỏ thứ sinh cỏ lau + cỏ chítcỏ chè vè+cỏ tranhĐất ẩm mát,còn mùn và tơi xốpĐất xói mòn, nông cạn, khônóng, cứng chặt32 Hình số 12. Diễn thế thứ sinh loại khô của thảm thực vật rừngở vùng Biển Động, tỉnh Bắc Giang và Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. theo Thái Văn TrừngQUầN HÖ X∙ HợPlim xanh + sau sau + re + kháo + dẻ gai + dẻ đáRừng kín nửa rụng lásau sau + thành ngạnhRừng kín rụng láthành ngạnh + cỏ lào + thầu tấu + cỏ tranhRừng tha rụng lácỏ lào + cỏ tranh + cỏ chè vè + thầu tấuTrảng cây bụiTrảng cỏ thứ sinh cỏ tranhcỏ chè vè Rừng kÝn th−êng xanhlim xanh + sÕn mËt + t¸u l¸ nhỏ + dẻ gai + dẻ đá+ re + kháo33u hợp thân thảo có nhiều như chuối rừng, lau, chít, chè vè v.v…Đất ở ưu hợp chuối rừng còn ẩm nhưng ở ưu hợp lau, chít, chè vè thì đất đã thối hố sang trạng thái xấu hơn.+ Sau khai thác rừng : – Ưu hợp Lim xanh + Trám trắng Erythrophoeum fordii+ Canarium albumƯu hợp này xuất hiện sau khai thác chọn ở những vùng có lim xanh phân bố. Chính những cây mẹ của thế hệ rừng cũ là nguồn hạt giống cho tái sinh rừng sau khai thác. Lim xanh làloài cây ưa sáng nhưng chịu bóng trong giai đoạn còn nhỏ. Sau khi khai thác, tán rừng bị phá vỡ tạo điều kiện cho tái sinh lim xanh và các loài cây khác sinh trưởng phát triển tham gia vào tổthành của rừng. – Ưu hợp Nứa lá to Schizostachyum funghomiiƯu hợp này phân bố ở dọc theo các con sông lớn như sông Hồng, sông Mã, sông Chu, sông Chảy, sông Lơ v.v…Ưu hợp này có các tỉnh Lào Cai, n Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, BắcKạn, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh v.v…Tầng cây gỗ còn sót lại sau khai thác là Lim xanh Erythrophoeum fordii, Trám trắng Canarium album, NgátGironniera subaequalis, Chò nâu Dipterocarpus tonkinensis v.v…Dưới tầng này là nứa phát triển dày đặc tạo thành tầng tán nứa liên tục có độ tàn che cao. Đây là nguyên nhân làm cho táisinh của những lồi cây gỗ rất khó khăn. Quần thể nứa ổn định trong thời gian dài vì khó có lồi cây nào cạnh tranh được với nứa. Chỉ trong trường hợp nứa bị khuy thì quần thể rừng nứa mớiđược thay thế bằng một quần thể khác. – Ưu hợp Giang Maclurochloa sp.Ưu hợp này phân bố nhiều ở vùng ẩm. Thân không mọc thẳng đứng mà chồng chéo lên nhau làm cho rừng kín rậm rạp. Tái sinh của các lồi cây gỗ rất khó khăn. Do vậy, quần thể rừnggiang tồn tại trong một thời gian dài. Đất dưới rừng giang không tốt lắm nên nhân dân có kinh nghiệm là khơng đốt rừng giang làm nương.Những ưu hợp xuất hiện sau khai thác phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đó là tổ thành của rừng trước khai thác, tổ thành loài cây khai thác, cường độ và luân kỳ khai thác, kĩ thuật khai thácvà vận xuất v.v… Do vậy, mỗi địa phương có thể xuất hiện nhiều ưu hợp sau khai thác khác nhau.b Tác động tích cực của con người Đây là những kiểu phụ nuôi trồng nhân tạo. Con người trồng rừng mới như rừng thông,mỡ, bạch đàn, bồ đề, luồng, phi lao, đước v.v…xem chương Trồng rừng trong Cẩm nang ngành lâm nghiệp34Hình số 13. Rừng trồng bạch đàn E. urophylla, Tuyên Quang35Hình số 14. Voi rừng nhiệt đới Tây Nguyên, Việt namHình số 15. Hổ, động vật quí hiếm, trong rừng nhiệt đới Việt Nam3.1.5. Ý nghĩa kinh tế, phòng hộ và khoa họcHệ sinh thái rừng này phân bố rộng trên các tỉnh trung du và miền núi Việt Nam. Trữ lượng gỗ ở rừng nguyên sinh có thể đạt đến 400 – 500 mha, trong đó có nhiều lồi gỗ q nhiệt đới và là loài bản địa đặc hữu của Việt Nam có giá trị sử dụng cao như đinh, lim, sến, táu v.v…vàđặc biệt là có nhiều lồi lâm sản ngồi gỗ có giá trị như dược liệu q, nhiều loài cây cho nhựa và tinh dầu v.v…Đây là đối tượng rừng khai thác trong nhiều năm qua và đã cung cấp một khốilượng lớn gỗ xây dựng, nguyên liệu công nghiệp chế biến lâm sản v.v… cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, do khai thác chạy theo kế hoạch trong thời kinh tế bao cấp, khai thác không đúngkĩ thuật, không bảo đảm tái sinh rừng nên diện tích và trữ lượng rừng đã bị suy giảm. Tỉ lệ rừng thứ sinh nghèo kiệt tăng lên. Trong những năm gần đây, ngành lâm nghiệp đã có chủ trương hạnchế lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên, tiến tới đóng cửa rừng tự nhiên. Ngồi ra, nhiều khu rừng nguyên thuỷ nhiệt đới như Cúc Phương Ninh Bình, Phong Nha – Kẻ Bàng Quảng Bình, BạchMã Thừa Thiên – Huế, Cát Tiên Đồng Nai v.v…đã, đang và sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn từ du lịch sinh thái.Hệ sinh thái rừng này phân bố ở hầu hết các vùng đầu nguồn của các con sông lớn ở Việt Nam. Đây là kiểu hệ sinh thái rừng nhiệt đới điển hình được đặc trưng bởi rừng lá rộng thườngxanh hỗn giao phức tạp nhiều tầng tán. Có thể coi những đặc trưng này là mơ hình chuẩn đáp ứng tối ưu cho yêu cầu phòng hộ đầu nguồn ở miền núi và trung du. Trên thực tế, kiểu hệ sinhthái rừng này đã và đang giữ vai trò cực kì quan trọng cho việc ni dưỡng nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, hạn chế lũ lụt cho cả vùng đồng bằng, đô thị và ven biển Việt Nam.Hệ sinh thái rừng nhiệt đới này có tính đa dạng sinh học cao cả về đa dạng nguồn gen, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái. Trong hệ sinh thái này có nhiều lồi thực vật động vật rừng qhiếm, có lồi đang bị đe doạ diệt chủng cần được bảo tồn nghiêm ngặt và phát triển. Đây là đối36tượng nghiên cứu khoa học của các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên và nhiều cơ quan nghiên cứu trong và ngoài ngành lâm nghiệp. Dưới tấm màn xanh của những hệ sinh thái rừngnhiệt đới này vẫn còn chứa đựng biết bao điều bí ẩn mà các nhà lâm sinh học Việt Nam chưa phát hiện được.

Source: https://vvc.vn
Category : Bảo Tồn

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Alternate Text Gọi ngay