Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Thái Lan (tiếng Thái: ฟุตบอลหญิงทีมชาติไทย) là đội tuyển bóng đá nữ đại diện cho Thái Lan và do Hiệp hội bóng đá Thái Lan (FAT) điều hành.
Tuyển nữ Đất nước xinh đẹp Thái Lan không ít thống trị khu vực với 4 lần vô địch AFF Cup và 5 lần vô địch SEA Games. Họ cũng hai lần liên tục giành quyền chơi vòng chung kết giải vô địch bóng đá nữ quốc tế với lần tiên phong là vào năm năm ngoái. [ 2 ]Đại diện nữ của Xứ sở nụ cười Thái Lan từng đăng quang giải vô địch bóng đá nữ châu Á năm 1983 và cho đến nay đó là lần duy nhất một đội bóng cấp vương quốc của xứ sở của những nụ cười thân thiện vô địch một giải đấu lục địa. [ 3 ] [ 4 ]
Đội ngũ kỹ thuật[sửa|sửa mã nguồn]
Các đời đào tạo và giảng dạy[sửa|sửa mã nguồn]
Bên dưới là những cái tên từng đảm nhiệm công việc huấn luyện tuyển nữ Thái Lan từ năm 1999 tới nay.
Cựu quản trị[sửa|sửa mã nguồn]
Nói về quyết định nhận lời mời của Chủ tịch FAT Worawi Makudi để trở thành trưởng đoàn bóng đá nữ, nữ doanh nhân Nualphan Lamsam lúc đó cho biết mình không phải cầu thủ, cũng không có nhiều kiến thức về bóng đá nên tỏ ra khá do dự. Tuy nhiên, khi gặp các cầu thủ nữ, bà thấy có cảm tình và quyết định nhận trách nhiệm mới. Theo ước tính của truyền thông Thái Lan, trong 6 năm từ 2009 đến 2015, thời điểm tuyển nữ Thái Lan lần đầu tham dự World Cup, nữ tỷ phú sinh năm 1966 đã đầu tư khoảng 100 triệu bạt nhằm nâng tầm đội nhà. Không chỉ đầu tư tiền của, Lamsam còn là con người ân cần, chu đáo và dành nhiều thời gian quan tâm tới đời sống tinh thần các cầu thủ. Những cầu thủ nữ Thái Lan sau khi giải nghệ cũng được bà thu xếp công ăn, việc làm để giúp họ cũng như nhiều cầu thủ khác có thể yên tâm cống hiến cho đội tuyển. Với sự tận tâm và chu đáo của mình, Lamsam được các cầu thủ gọi với cái tên thật mật là “Madam Pang”.[6] Kết thúc hành trình tại World Cup 2019, “Madam Pang” đã tuyên bố chia tay đội tuyển Thái Lan sau 12 năm gắn bó.[cần dẫn nguồn]
Đội tuyển nữ Đất nước xinh đẹp Thái Lan đã tranh tài quốc tế từ những năm 1970, nhưng cho đến sau trận gặp Đài Loan tháng 10 năm 1981 thì những trận đấu trước đó không có trong hạng mục theo dõi của FIFA. [ 7 ]
Cấp quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Lần đầu tham dự vòng chung kết World Cup vào năm 2015, Thái Lan dừng bước ở vòng bảng, đứng thứ ba với ba điểm sau chiến thắng Bờ Biển Ngà 3–2 cùng hai trận thúc thủ trước Đức và Na Uy. Lần thứ hai tham dự vào năm 2019, đội không có kết quả tốt như lần đầu, bị loại mà không có được điểm nào và còn thua Hoa Kỳ trận mở màn với tỷ số đậm kỷ lục của giải đấu này là 0–13 cũng như để thua Chile, đối thủ kém mình 5 bậc trên bảng xếp hạng FIFA khi ấy.[8]
Thế vận hội
|
Năm
|
Kết quả
|
ST
|
T
|
H
|
B
|
BT
|
BB
|
1996 tới 2020
|
Không vượt qua vòng loại
|
Tổng |
|
– |
0 |
0 |
0 |
0 |
0
|
Cấp châu Á[sửa|sửa mã nguồn]
Là một thế lực của bóng đá nữ châu Á vào những năm tiên khởi, xứ sở của những nụ cười thân thiện đoạt ngôi á quân cả ba lần tiên phong dự giải vô địch châu Á trước khi chính thức xưng vương ngay trên sân nhà Băng Cốc tại giải đấu mà họ đăng cai năm 1983 với thắng lợi 3 – 0 trước Ấn Độ. Hầu hết những vòng chung kết lục địa những năm sau đó Xứ sở nụ cười Thái Lan đều góp mặt nhưng không vượt qua được vòng bảng cho tới kỳ Asian Cup năm trước, giải đấu mà họ vượt mặt chủ nhà Nước Ta trong trận đấu tranh hạng năm cũng là trận tranh tấm vé dự World Cup năm ngoái. [ 9 ] Sau chiến tích đó, Thương Hội bóng đá Thái Lan thông báo muốn góp vốn đầu tư thêm cho việc kiến thiết xây dựng ” thế hệ vàng tiên phong ” của bóng đá nữ Xứ sở nụ cười Thái Lan, những nữ cầu thủ vốn không được dư luận Thái chăm sóc như những đồng nghiệp nam. [ 10 ]
Asian Cup
|
Năm
|
Kết quả
|
ST
|
T
|
H
|
B
|
BT
|
BB
|
1975 |
Á quân |
4 |
3 |
0 |
1 |
10 |
5
|
1977 |
Á quân |
4 |
3 |
0 |
1 |
8 |
3
|
1979 |
Không vượt qua vòng loại
|
1981 |
Á quân |
5 |
3 |
0 |
2 |
6 |
8
|
1983 |
Vô địch |
6 |
6 |
0 |
0 |
25 |
1
|
1986 |
Hạng 3 |
5 |
4 |
0 |
1 |
15 |
5
|
1989 |
Vòng bảng |
3 |
0 |
0 |
3 |
1 |
12
|
1991 |
Vòng bảng |
3 |
1 |
1 |
1 |
4 |
10
|
1993 |
Không vượt qua vòng loại
|
1995 |
Vòng bảng |
2 |
1 |
0 |
1 |
3 |
4
|
1997 |
Không vượt qua vòng loại
|
1999 |
Vòng bảng |
4 |
2 |
0 |
2 |
6 |
10
|
2001 |
Vòng bảng |
4 |
2 |
0 |
2 |
5 |
9
|
2003 |
Vòng bảng |
4 |
2 |
0 |
2 |
6 |
21
|
2006 |
Vòng bảng |
4 |
1 |
0 |
3 |
2 |
26
|
2008 |
Vòng bảng |
3 |
0 |
0 |
3 |
1 |
11
|
2010 |
Vòng bảng |
3 |
1 |
0 |
2 |
2 |
7
|
2014 |
Hạng 5 |
4 |
2 |
0 |
2 |
4 |
13
|
2018 |
Hạng 4 |
5 |
2 |
1 |
2 |
12 |
11
|
2022 |
Tứ kết |
4 |
1 |
0 |
3 |
5 |
10
|
Tổng |
Vô địch |
62 |
31 |
1 |
29 |
103 |
155
|
Á vận hội
|
Năm
|
Kết quả
|
ST
|
T
|
H
|
B
|
BT
|
BB
|
1990 tới 1994
|
Không tham dự
|
1998
|
Vòng bảng |
3 |
0 |
1 |
2 |
1 |
22
|
2002
|
Không tham dự
|
2006
|
Vòng bảng |
3 |
1 |
0 |
2 |
5 |
11
|
2010
|
Vòng bảng |
2 |
0 |
0 |
2 |
0 |
6
|
2014
|
Tứ kết |
4 |
2 |
0 |
2 |
21 |
7
|
2018
|
Tứ kết |
3 |
0 |
0 |
3 |
2 |
10
|
2022
|
Chưa xác định
|
2026
|
Chưa xác định
|
Tổng |
Tứ kết |
15 |
3 |
1 |
11 |
29 |
56
|
Cấp khu vực[sửa|sửa mã nguồn]
Kết quả và lịch đấu[sửa|sửa mã nguồn]
23 cầu thủ chính thức tham dự AFF Cup 2019.[11]
Từng triệu tập[sửa|sửa mã nguồn]
Chú thích:
- INJ Rút lui do chấn thương
- PRE Đội hình sơ bộ
- SUS Bị loại khỏi đội hình
- RET Đã chia tay đội tuyển quốc gia
- WD Rút lui vì lý do cá nhân
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]